Trang trại Bảy Đức - Đ/c: Thôn Tiến Hiệp, xã Tiến Lợi, Phan Thiết, Bình Thuận




Cung cấp dông giống cho hộ gia đình muốn phát triển nghề nuôi dông và hướng dẫn phương pháp nuôi.

Cung cấp dông thịt cho nhà hàng, quán ăn có chất lượng, uy tín, giá phải chăng.

Liên hệ: Trang trại ông Bảy Đức. Địa chỉ: Thôn Tiến Hiệp - xã Tiến Lợi - Phan Thiết - Bình Thuận.

Điện thoại nhà: 062.3.729.964. Điện thoại di dộng: 0188.917.3137. Email: Thanhthuydpi@yahoo.com.vn. Nickchat yahoo: Thanhthuydpi

Con Dông là nguồn thực phẩm tự nhiên vô giá và là đặc sản đặc sắc của vùng ven biển Phan Thiết - Bình Thuận quê tôi. Mời các bạn ghé thăm trang Blog để biết thêm về loài Dông, các món ăn đặc sắc từ Dông và kỹ thuật nuôi dông.

Thứ Tư, 30 tháng 11, 2011

Nuôi dông- đầu tư thấp, thu nhập cao

Con nhông cát hay còn gọi là con dông là động vật sống hoang dã, thích nghi với vùng đất cát hoang mạc. Tại Bình Thuận, con dông đào hang sống trong những đồi cát, động cát ven biển ở các huyện Bắc Bình, Tuy Phong, Hàm Thuận Bắc, Phan Thiết, tập trung nhiều nhất ở khu vực đồi cát ven biển Mũi Né, Thiện Nghiệp, Hòa Thắng, Hồng Phong…đang phát triển các khu du lịch biển của tỉnh.
Khi du lịch ở Bình Thuận phát triển, du khách về đây ngoài những món ăn hải sản làm từ tôm, cua, ghẹ, cá, nghêu, sò, ốc…, còn được thưởng thức món ăn đặc trưng của vùng gió, cát là thịt con dông. Thịt dông được chế biến nhiều món, từ dông nấu cháo đến dông nướng sả ớt, dông trộn lá me, dông xào lăn, nướng mọi …Từ năm 2005 trở về trước, con dông được chế biến dùng trong bữa cơm của những gia đình nông dân nghèo ở vùng nhiều nắng, thiếu mưa. Khi trở thành món ăn đặc sản vùng cát, con dông ở Bình Thuận dần dần chiếm được vị thế của mình, vào thời điểm này giá dông không dưới 350 ngàn đồng/kg. Chính vì thế, nguồn dông tự nhiên cũng dần dần bị cạn kiệt.
Việc đào, bẫy để bắt dông hiện nay chưa có ngành chức năng nào nghiêm cấm, nhưng nhu cầu của xã hội ngày một tăng và gắn với cuộc sống của không ít hộ quanh năm chờ những cơn mưa mới được trồng cây mè, cây đậu, cây dưa… ở vùng cát ven biển, nên nhiều người đã nghĩ đến việc nuôi dông. Họ nắm bắt được đặc tính của con dông là dễ nuôi, tự rời hang đi kiếm côn trùng, các loại phế phụ phẩm nông nghiệp, rau cỏ... để ăn. Vào mùa mưa khoảng tháng 5, tháng 6 thì dông đẻ, thời gian sinh trưởng nhanh, khoảng 7-8 tháng tuổi thì dông đạt trọng lượng 0,3 - 0,5 kg/con và có thể xuất bán. Nhưng nuôi dông phải rào chắn xung quanh và đất không ứ đọng nước, độ ẩm thích hợp để dông sống thích nghi và không bị thất thoát. Anh Đặng Anh Việt, hộ nuôi dông ở Hồng Liêm (Hàm Thuận Bắc) cho biết: anh thả nuôi khoảng 100 kg dông giống trong phạm vi khoảng 1.000 mét vuông đất trong vườn, sau hơn 7 tháng nuôi dông đạt trọng lượng 300 – 400 gram/con, bán với giá 350 ngàn đồng/kg, trừ các khoản chi phí anh còn lãi gần 40 triệu đồng. Với anh, những vùng khác cũng có thể nuôi được dông, nhưng phải rào chắn và đổ cát để dông đào hang tạo môi trường sống thích hợp. Chi phí ban đầu tuy có cao hơn nuôi ở vùng đất cát tự nhiên, nhưng chỉ sau một năm có thể thu hồi vốn và có lãi chút đỉnh, những năm sau thu nhập cao hơn.
Từ một vài hộ tận dụng đất vườn đầu tư rào chắn, khoanh nuôi thử nghiệm vài trăm mét vuông, đến nay diện tích nuôi dông ở Bình Thuận đã được mở ra hàng chục ha, tập trung nhiều nhất tại các xã Hòa Thắng, xã Hồng Phong… ở huyện Bắc Bình là vùng đất cát khô hạn, ít mưa, nhiều nắng, chỉ có gió và cát, rất phù hợp với con dông sinh trưởng. Có thể nói con dông là đặc sản của vùng gió cát, mang lại hiệu quả kinh tế cao. Do đó, thời gian gần đây, nghề nuôi dông đang phát triển mạnh ở những vùng đất cát ven biển như ở xã Tiến Thành (TP Phan Thiết), nhiều hộ nông dân đang đổ xô nuôi dông.Nuôi dông đầu tư thấp, dễ nuôi, dễ bán, thu nhập cao; thịt dông chế biến được nhiều món ăn ngon, khoái khẩu, góp phần làm phong phú thực đơn của các quán ăn, nhà hàng phục vụ khách du lịch. Nuôi dông hiện nay là một nghề mới ở Bình Thuận, nhưng người dân vẫn chỉ tự học nhau để làm. Người nông dân ở vùng gió cát Bình Thuận đang rất cần ngành chức năng hướng dẫn kỹ thuật, giúp họ thoát được nghèo và vươn lên làm giàu từ con dông, từng bước đưa nghề nuôi dông phát triển nhanh, bền vững trong thời gian tới./.

Con nhông đất quê ngoại


Quê ngoại tôi nằm trên một doi cát ven sông Trường Giang. Người dân quê ngoại tôi bao đời nay sống chung với cát. Mở mắt ra đã thấy doi cát dài rộng hút tầm mắt, những khi gió lớn, bão bùng cát bay tứ bề, bay cả vào trong nhà... Mẹ tôi, các cậu các dì đã lớn lên từ vùng quê cát này, bàn chân trần tuổi thơ bỏng rát vì cát. Và cũng chính từ vùng cát này, thiên nhiên đã ưu ái ban tặng cho quê ngoại tôi một thứ đặc sản mà không phải nơi nào cũng có, đó là con nhông đất.



Nhông đất là loài bò sát hoang dã, di chuyển bằng bốn chân và đào hang sâu dưới lòng đất để trú ẩn và sinh sản. Đất quê ngoại tôi vừa mềm, vừa xốp lại gần sông nên đất luôn ẩm ướt, bởi vậy đây là một môi trường khá lý tưởng để loài nhông đất làm hang sinh sống. Nhông mái (thường được gọi là nhông cái) có màu nâu đen của đất, trên da có một ít đốm hoa văn, còn nhông đực (được gọi là nhông que hay nhông thềm) thì sặc sỡ hơn với những đốm hoa văn xanh đỏ khắp thân. Hằng năm, cứ vào độ tháng 5 âm lịch thì nhông mái bắt đầu đẻ trứng. Một con nhông mái có thể đẻ từ 2 đến 8 trứng. Nhông là loại bò sát không kén ăn, thức ăn của chúng là những loại thực vật thân mềm và những loài côn trùng nhỏ từ cỏ non, chồi cây mới nhú, các loại hoa dại đến dế, cào cào, châu chấu... Đặc biệt, nhông là loài có khả năng tự tồn tại rất cao, gặp những lúc thời tiết không thuận lợi, thiếu thức ăn hoặc bị đe dọa, con nhông có thể ở lì dưới hang hằng tuần, không cần thức ăn chỉ tự cắn đuôi mà sống.

Để bắt được nhông đất, người dân quê ngoại tôi đã sáng tạo ra một kiểu bẫy rất đơn giản nhưng đem lại hiệu quả rất cao, đặt đâu “dính” đấy. Bẫy được làm từ những chiếc ống tre rỗng hai đầu, mỗi ống tre người ta cột thêm vào một thanh tre cật nhỏ có một sợi dây được thắt lại thành thòng lọng bỏ vào ống tre. Khi phát hiện ra hang nhông, chỉ cần kéo thanh tre, gài chốt đặt ngay miệng hang là xong. Con nhông từ dưới hang chui lên bắt buộc phải rúc qua ống tre, khi đầu nó vừa chạm vào chốt thì lập tức thanh tre sẽ bung lên và sợi dây thòng lọng sẽ siết lại. Thế là một chú nhông đã dính bẫy. Loại bẫy này đơn giản, dễ làm, vật liệu là những cây tre có sẵn trong vườn nhà nên mỗi lần người dân quê ngoại tôi đi bắt nhông họ đem theo cả vài chục cái và tất nhiên khi đi gom bẫy họ đã có hòm hòm vài chục con nhông đem về tha hồ mà trổ tài nấu nướng làm mồi nhậu. Ngoài cách đặt bẫy này, người dân quê ngoại tôi dựa vào kinh nghiệm của mình và thói quen của loài nhông đất mà có cách bắt nhông độc đáo hơn, đó là dò nhông và cào nhông. Khi phát hiện hang nhông bị đùn lại tức là con nhông đã tự lấp miệng hang lại để ngụy trang và đang ở phía dưới hang. Người ta chỉ cần dùng ngón tay hoặc một cái que nhỏ cào nhẹ nơi miệng hang, hoặc dùng que chọc từ từ nhịp nhàng xuống hang để dụ nó lên. Con nhông thấy động sẽ lập tức bò lên miệng hang và bị bắt sống ngay. Đôi khi người ta còn dùng cuốc đào sâu vào hang, chỉ cần hai ba nhát cuốc là đã có thể tóm được con nhông ngay.

Thịt nhông từa tựa như thịt gà nên dễ dàng chế biến thành những món ăn ngon không kém gì thịt gà. Con nhông bắt về được chặt đầu, chặt chân rồi lột da, mổ bụng bỏ hết bộ lòng. Người dân quê ngoại tôi ưa chuộng nhất là món nhông bằm nhuyễn cả xương xào mặn với sả ớt. Món này ăn với cơm hoặc làm mồi cho mấy bác nông dân "giải mỏi" sau những giờ đồng áng thì hết chỗ chê. Thịt nhông có thể đem băm nhỏ để làm chả, món này ngon hơn hẳn chả cá thu, cá đối. Hấp dẫn nhất là món nhông nướng xé nhỏ ăn với muối tiêu chanh ớt. Nướng nhông phải để nguyên con, vừa nướng vừa phết thêm một ít mỡ heo để thịt nhông vàng và béo hơn cho đến khi cả thân con nhông vàng ươm, thơm phức thì đem xé nhỏ. Để tăng thêm mùi vị, thì món nhông nướng phải ăn kèm với khế, chuối chát và rau ngổ điếc mới đúng điệu...

Bây giờ, nhà hàng quán nhậu ngày càng mọc lên nhiều và thịt nhông đã trở thành món đặc sản, do vậy nhông bán rất được giá. Vào mùa nhông, người ta đua nhau đi lùng, săn bắt nhông, lớn nhỏ gì đều bắt hết để bán cho các nhà hàng, quán nhậu. Con nhông cũng không còn được nhiều, và khó bắt hơn trước. Bởi vậy trong những bữa cơm hằng ngày, những món ăn chế biến từ thịt nhông chỉ còn trong nỗi nhớ thường nhật của những người dân quê ngoại tôi mà thôi.

Kỹ thuật nuôi kỳ nhông - kì nhông - dông - giông



Làm chuồng, hố nuôiKỳ nhông phải nuôi ở nơi khô ráo, có cát. Kỳ nhông hợp với khí hậu vùng ven biển miền trung nắng gió, càng khắc nghiệt càng tốt !
Cũng có thể thực hiện xây dựng trang trại tại các tỉnh phía Nam, có phủ một lớp cát trắng Miền Trung lên là được.

Hố nuôi kỳ nhông đủ rộng, có hào sâu tráng xi măng để khi kỳ nhông xuống không lên được hoặc được bao tường xung quanh cao 1,2m, bên trên có viền trát hồ xi măng láng bóng rộng khoảng 30cm để kỳ nhông không thoát được ra ngoài. Nền hố tôn cao 30-50cm so với mặt đất xung quanh, xếp gạch xỉ cách nhau 3- 5cm, đổ một lớp cát dày 0,6- 0, 7m để thoát nước và cho kỳ nhông làm tổ. Trồng cây hay làm chòi tạo bóng mát cho kỳ nhông trú nắng nhưng phải cách tường bao trên 1, 5m để kỳ nhông không nhảy ra ngoài.
Nguồn giống
Có hai nguồn cung cấp giống: Bắt trong tự nhiên, loại này thường không đồng cỡ, có con lớn, con bé khó nuôi. Loại nhân giống nhân tạo trong hố nuôi, loại này đồng cỡ, chăm sóc nuôi dưỡng dễ hơn. Nguồn giống kỳ nhông hiện rất hiếm, cung chưa đủ cầu. Chọn những con kỳ nhông khoẻ mạnh, không bị thương tật, dị hình để nuôi.
Chăm sóc nuôi dưỡng
Chăm sóc kỳ nhông không phức tạp, quan trọng là bảo vệ. Thức ăn nuôi kỳ nhông đa dạng, chủ yếu là thức ăn thực vật: lá, hoa, nụ, quả, chồi cây, cành non . . . Ngoài ra, chúng còn ăn côn trùng (bướm, sâu non, giun đất...), trứng của loài bọ cánh cứng.
Kỳ nhông sau khi nuôi được 8-10 tháng thì trưởng thành, mỗi con nặng 80-120g; kỳ nhông cái trưởng thành đẻ trứng 3-8 quả trong hang tự nhiên hay nhân tạo vào mùa nóng và khô. Đến mùa mưa, độ ẩm không khí cao, trứng nở thành nhông con.

Dông cát danh bất hư truyền

Dông cát hay còn gọi là kỳ nhông, là loài bò sát thường sống ở những đồi cát ven biển, có hình dáng khá giống con tắc kè. Thịt dông còn ngon hơn cả thịt gà, thịt ếch...


Dông cát được coi là ông “vua“ của những đồi cát
Dông cát được coi là ông “vua“ của những đồi cát
Nếu có dịp đi du lịch ở Ninh Chữ-Ninh Thuận, vào bất kỳ chợ lớn nhỏ nào bạn cũng thấy bày bán những lồng sắt đầy dông.
Ông “vua” đồi cát
Từ lâu, dông được coi là đặc sản xứ xương rồng. Người ta bảo dông là những ông “vua” của những đồi cát.
Loài dông thường khoái ăn cà chua, rau muống, dưa hồng... Riêng con dông Ninh Thuận có 4 loại: dông rằn xám trắng, dông bột, dông đen, dông lửa.
Chúng chạy nhanh, “ngụp lặn” như... sao xẹt trên những suối cát mịn màng. Thế nên thịt dông dai, săn chắc và thơm hơn cả thịt ếch, lại còn bổ dưỡng.
Cách đây gần chục năm, khi "vua" đồi cát được giá, người ta đổ xô đi xới cát bắt dông để “đổi đời”. Song, khi nguồn dông đã không còn phong phú như trước do săn bắt quá độ, khá nhiều hộ dân đã nghĩ ra cách nuôi dông tại gia để phục vụ nhu cầu của thực khách địa phương và nhiều vùng khác trên cả nước.
Nhiều năm qua, Ninh Thuận cũng là nguồn cung cấp dông rất lớn cho các tỉnh, thành khác ở khu vực phía Nam.
Khoái khẩu dông nướng
Có thể chế biến được rất nhiều món ngon từ con dông như:  dông xào sả ớt, rô-ti, chiên giòn, gỏi dông…nhưng ấn tượng nhất vẫn là dông nướng và chả dông. Cả hai đều thuộc hàng đệ nhất khoái trong các món từ dông.
Món dông nướng thoạt nhìn thấy hơi “ớn lạnh” vì vẻ bề ngoài sần sùi, song khi đã ăn rồi bạn không muốn gác đũa và thậm chí có người còn tiếc ngẩn ngơ vì biết đến vị ngon ngọt của thịt “vua” đồi cát quá trễ. Để làm dông nướng, bạn chuẩn bị trước khoảng 10 con dông. Rồi bày sẵn nước mắm, muối, ớt, tiêu, chanh. Cách làm: Dông rửa sạch, lột da, moi bỏ hết ruột, rửa lại để ráo nước.
Sau đó ướp dông với một chút nước mắm và ½ muỗng cà phê muối. Còn ớt bằm nhỏ, cho vô đảo đều, thời gian ướp khoảng 15 phút cho thấm gia vị. Xếp dông lên vỉ, cho lên bếp than nướng, vừa nướng vừa trở cho đều, thỉnh thoảng thoa thêm một ít dầu ăn, nhờ vậy dông mới có độ bóng và không bị khô. Khi nào chín vàng, dậy mùi thơm là được. Món này ăn nóng, chấm muối tiêu chanh ăn rất thơm, ngon.
Độc đáo chả dông
Với 5 con dông sống, bạn có thể chế biến món này cho 5 người lai rai ngon lành. 100g giò sống, lá xào dông, hành tím, tỏi, sả, ớt, nước mắm, bột ngọt, tiêu và dầu ăn.
Đem dông lột da, rửa sạch, bằm nhỏ rồi ướp với nước mắm, hành tím, tỏi, sả, tiêu, bột ngọt, lá xào dông. Thời gian ướp 5 phút, cho giò sống với thịt dông vào xay chung thật nhuyễn. Viên thành từng viên. Bắc chảo lên bếp nóng, cho dầu vào đun sôi, cho từng viên lên chảo dầu chiên chín vàng là được. Món này ăn kèm với cơm rất ngon.

Giải pháp nào phát triển nghề nuôi dông thương phẩm ?

Giải pháp nào phát triển nghề nuôi dông thương phẩm ? Ước tính toàn tỉnh hiện có từ 500- 600 hộ nuôi dông, với diện tích chuồng nuôi khoảng 50 ha. Nhờ vậy, nhiều hộ nông dân đã thoát nghèo và khấm khá lên nhờ mô hình kinh tế này. Tuy nhiên, để nghề nuôi dông thương phẩm có thể phát triển tốt, chắc chắn vẫn còn nhiều việc phải làm.

 Tiềm năng

Con dông là loại động vật hoang dã, sống chủ yếu ở những vùng đất cát ven biển từ Thanh Hóa đến tận Kiên Giang. Tuy nhiên, Bình Thuận vẫn là vùng đất phát triển nuôi dông mạnh nhất trong cả nước, đặc biệt là vùng khu Lê. Hiện tại, sức hấp dẫn những món ăn được chế biến từ con dông, khiến dông được “lên đời” thành món đặc sản khoái khẩu của nhiều người, dù giá cao (khoảng từ 300-400 ngàn đồng/kg). Trước nhu cầu tiêu thụ thịt dông tăng nhanh, mấy năm nay người dân trong tỉnh đã bắt đầu săn bắt con giống về nuôi bán. Hơn nữa, với lợi thế có bờ biển dài 192 km, diện tích đất cát là 117.468 ha, chiếm 15% diện tích tự nhiên, Bình Thuận sẽ là vùng đất đầy tiềm năng để phát triển nghề nuôi dông thương phẩm, nếu biết khai thác và có các giải pháp hữu hiệu để phát triển. Tuy vậy, vấn đề đặt ra ở đây là làm thế nào để phát triển và nhân rộng nghề nuôi dông thương phẩm với quy mô lớn trên địa bàn tỉnh? Để làm được điều đó, mấy năm qua Trung tâm Phát triển kinh tế- xã hội tỉnh (SEDEC) đã hợp tác với các xã Hòa Thắng, Hồng Phong nói riêng và huyện Bắc Bình nói chung (địa phương có diện tích nuôi dông lớn nhất tỉnh), thực hiện một số hoạt động thử nghiệm, tìm hiểu con dông trong quá trình nuôi thương phẩm. Bởi lâu nay, việc nuôi dông chỉ mới dựa vào kinh nghiệm thực tế của nông dân, ngoài ra vẫn chưa có các nghiên cứu để cung cấp có cơ sở khoa học và thực tiễn để giúp bà con phát triển mạnh mẽ nghề nuôi mới này.


 Tìm giải pháp phát triển nghề nuôi dông

Theo kinh nghiệm của người dân khu Lê, con dông sống ở vùng này có những ưu thế vượt trội so với con dông các vùng khác vì nó phát triển nhanh, trọng lượng cơ thể lớn, thịt ngon và có hiệu quả kinh tế hơn loại dông hương. Dông là loài ăn tạp, thức ăn gồm nhiều loài thực vật và côn trùng nhỏ, do đó khá dễ nuôi. Trong quá trình thực hiện một số mô hình nuôi thử nghiệm và kinh nghiệm thực tế nuôi dông thương phẩm, ông Phạm Khắc Thọ - Giám đốc Trung tâm SEDEC cho hay: Khi xây dựng chuồng nuôi, bà con phải chọn vùng đất cát thông thoáng, khả năng thoát nước tốt. Nếu xây chuồng trên đất trống thì phải trồng cây che phủ; nếu diện tích chuồng nhỏ, có thể tạo mặt bằng thành luống hoặc gò đồi nhỏ để tăng diện tích mặt bằng cho dông đào hang và sinh hoạt. Đặc biệt, dông có tập tính con lớn ăn thịt con bé, nên cần chú trọng quản lý dông con bằng cách tách bầy, đưa vào một chuồng nhỏ để chăm sóc riêng. Dông con nuôi khoảng 4-5 tháng, có thể chọn đưa vào chuồng nuôi thương phẩm…

Để phát triển hơn nữa nghề nuôi dông thương phẩm trong tỉnh, ông Thọ nhấn mạnh: “Phải xác định đây là một nghề mới trong cơ cấu chăn nuôi ở địa phương, do đó cần hình thành các chính sách phát triển tương xứng. Bên cạnh đó, địa phương nên chủ động hợp tác với các nhà khoa học, viện, trường… liên quan, để xây dựng và thực hiện đề tài cho dông sinh sản nhân tạo, sản xuất con giống cung cấp cho người chăn nuôi, nhằm tăng năng lực cung ứng giống có chất lượng và hạn chế khai thác dông con trong tự nhiên. Còn theo các hộ nuôi dông như ông Lê Thanh Chung, Trần Văn Nhân… tại xã Hòa Thắng (Bắc Bình), hiện nay bà con chủ yếu nuôi dông tự phát, chưa có kinh nghiệm trong phòng và trị bệnh về con dông. Do đó, các cơ quan chức năng cần nghiên cứu, phổ biến cho bà con phương pháp nuôi và cách phòng trị bệnh… để phát triển nuôi dông hiệu quả hơn. Đồng thời, các phía liên quan phải hợp sức để xây dựng thương hiệu con dông khu Lê nói riêng và dông Bình Thuận nói chung để đẩy mạnh thị trường tiêu thụ.

Dông xào sả ớt, món ngon vùng đồi cát





 
 
Con dông - một trong những đặc sản của xứ sở xương rồng-thường sống ở những động cát của vùng đồi cát ở 2 tỉnh Ninh Thuận - Bình Thuận.

Dông có thể chế biến thành nhiều món: gỏi, nướng mọi, nướng sả ớt, rô ti, hấp, chả dông, cháo dông… Tuy nhiên, một trong những món dông khiến cho du khách gần xa không thể nào bỏ qua khi về Phan Rang, quê hương của con dông đồi cát: Dông xào sả ớt.

Thoạt nhìn, con dông gần giống như tắc kè. Tuy nhiên da của con dông không sần sùi như da tắc kè mà trơn láng hơn. Dông đực thường to con hơn dông cái. Thịt dông trắng , săn và ngọt. Thịt của con dông nhiều nhất và ngon nhất là ở phần đuôi. Mua dông về, người đầu bếp thường để nguyên con, dội nước sôi rồi lột da, bỏ ruột, bỏ đầu, dùng dao bằm nhuyễn, ướp với sả xay cùng ít nước mắm ngon, ớt xắt nhỏ, gia vị để chừng 10 phút cho thấm đều. Xong rồi trút tất cả vào chảo dầu đang sôi, đảo đều chừng 10 phút để thịt chín là có thể xúc ra dĩa, rắc đậu phộng rang vàng lên trên cùng với một ít rau húng. Cuối cùng, để thêm phần bắt mắt, ngừơi ta điểm xuyết thêm vài lát ớt khoanh chín đỏ lên trên.
Món dông xào sã ớt phải ăn nóng mới ngon và dùng bánh tráng nướng để ăn kèm. Món nước chấm được dùng để tạo thêm hương vị thơm ngon của món dông xào sả ớt là nước tương. Bởi chỉ có nước tương mới tạo được vị đậm đà cho món món dông xào sã ớt này.
Miếng bánh tráng dòn tan cộng với vị ngọt, bùi của miếng thịt dông xứ nóng khiến cho bạn chỉ nếm một lần thôi nhưng chắc chắn sẽ không bao giờ quên được. Ngày xưa con dông được người dân xứ nóng đưa lên hàng đặc sản, chỉ có khi khách quý đến nhà mới ra động cát tìm bắt vài con dông về để làm món dông xào sả ớt đãi khách. Con dông chuyên sống trong hang cát, nó chỉ ra khỏi hang từ sáng sớm và tìm ăn những chồi non của cỏ, vì thế mà con dông đã từng được người dân xứ nóng xem như một vị thuốc bổ. Nếu may mắn mà bắt được con dông cái đang có chửa thì quả là tuyệt hảo, vì theo những người sành ăn thì món trứng dông mới là ngon nhất, trứng dông rất béo nhưng không ngậy, khiến cho người ăn không biết ngán, trứng dông đáng được liệt vào hạng sơn hào, hải vị.
Ngày nay, con dông trong tự nhiên đã không còn nhiều như trước. Tuy nhiên những người nông dân xứ nóng vốn nhanh chóng thích nghi với nền kinh tế thị trường đã tìm ra cách nuôi dưỡng, thuần hóa buộc con dông phải sinh sản trong môi trường nuôi nhốt. Nhờ thế mà ngày nay khi về nghỉ ngơi, tắm biển ở Phan Rang, đến bất cứ nhà hàng nào, bạn cũng có thể gọi cho mình món dông xào sã ớt.  Và khi đã ngồi trước một dĩa dông xào sả ớt đang tỏa mùi thơm, thì chắc chắc rằng bạn không thể nào đủ can đảm từ chối dù bạn chưa bao giờ biết thế nào là con dông.

Thứ Ba, 29 tháng 11, 2011

Món dông nướng

Món dông đồi cát Phan Thiết

Món dông nướng hấp dẫn

Món ngon chế biến từ Dông

Từ lâu Phan Thiết, Bình Thuận đã nổi tiếng không chỉ bởi những bãi biển đẹp, những khu resort nghỉ dưỡng cao cấp mà nói đến nơi đây, khách du lịch còn nhắc đến hàng loạt món ăn nổi tiếng như: mực nướng, cá đục nướng, sò huyết, ốc luộc..., trong số đó du khách không thể nào bỏ qua món dông nướng.
Đây là đặc sản của vùng đồi cát.Gần đây cùng với xu hướng thưởng thức các món ăn ngon, lạ thì ngành nuôi dế, nuôi bọ cạp, nuôi dông ngày càng phát triển. Thuận lợi về địa hình, với những đồi cát chạy dọc ven biển tạo điều kiện cho việc nuôi dông cát. Bắt đầu phát triển ở Bình Thuận trong chục năm trở lại đây, ngành nuôi dông cát ngày nay phát triển với quy mô nuôi công nghiệp.

Dông thuộc họ bò sát, có kích thước lớn hơn thằn lằn, chiều dài từ 20-30cm. Từ một loài vật hoang dã được con người đem về nuôi, con dông đã sớm khẳng định được giá trị. Giá dông hiện nay trên thị trường là từ 350.000-400.000 đồng/kg mà vẫn không đủ hàng để cung ứng.

Để chế biến món dông nướng, đầu tiên chúng ta phải chọn những con mập, có kích thước của dông trưởng thành, vì nếu lựa những con nhỏ quá thì thịt dông sẽ rất bở, không ngon. Sau khi lột da dông, vệ sinh sạch sẽ rồi tẩm ướp gia vị.

Chúng ta ướp vào thịt dông hành băm nhuyễn, hạt nêm, tiêu và nước nắm. Nước nắm là thành phần không thể thiếu của món ăn, phải chọn loại nước mắm ngon của địa phương. Chờ khoảng 30 phút cho thịt thấm gia vị. Sau khi nhóm bếp, cho dông lên vỉ nướng. Theo kinh nghiệm thì nên nướng bằng bếp than vì như thế mới toát lên hết hương vị của món ăn.

Trong giai đoạn nướng chúng ta chú ý phải trở đều, không để thịt dông bị cháy khét. Sau khi dông chín vàng hai mặt, chúng ta bày ra đĩa, trang trí cho đẹp mắt. Dông nướng có thể ăn với bánh tráng nướng hoặc ăn với rau sống, bún và bánh tráng cuốn. Cho dông vào bánh tráng, cho thêm tí bún, rau sống cuốn lại rồi chấm nước mắm me thì không gì bằng.

Đối với những người con xa quê, dông nướng là món ăn không thể quên trong ký ức. Dù cho ngày nay người ta có thể tìm thấy dông nướng ở những quán ăn lớn, những quán nhậu khắp mọi nơi, nhưng vẫn không đâu bằng phố biển. Hương vị và cách thức chế biến đã làm nên sự khác biệt giữa món dông nướng Phan Thiết với những nơi khác.


Món dông hấp dẫn


Nói về đặc sản của Bình Thuận không thể bỏ qua món dông. Đây là một loài bò sát sống ở những đụn cát đầy nắng nóng. Thịt dông thơm, mềm và có vị ngon ngọt. Người ta có thể ướp dông với sả và gia vị rồi đem nướng hoặc có thể làm món dông bằm xúc bánh tráng hay gỏi dông, lẩu dông lá me thật độc đáo và nhớ mãi.  
   Thịt dông thường được các đầu bếp ở BìnhThuận chế biến thịt dông thành 7 món rất sành điệu: gỏi dông, chả dông, dông nướng, dông rôti, dông hấp, dông nấu dưa hồng và cháo dông.

   Làm gỏi dông rất công phu, phải có "bí quyết" nhà nghề mới chế biến được. Làm sạch ruột, lột da, đưa vào lò nướng, khi thịt dông vàng mới lấy ra. Sau đó băm nhuyễn, xào chín và trộn với  trái cóc hoặc xoài cắt chỉ nhỏ, rau thơm, đậu phộng rang giòn và đặc biệt phải có "lá xoài dông", một thứ lá cây mọc trên các vách đá vùng khô hạn, có vị chát. Gỏi dông ăn chung với bánh tráng dày, nhiều mè, xúc mãi không chán.
 
   Hấp dẫn hơn là món dông nướng. Có hai cách để làm dông nướng, tùy theo yêu cầu của khách hàng. Dông nướng để nguyên da, và dông nướng ướp muối ớt sau khi đã lột da. Ngon nhất trong con dông nướng là mật và trứng dông. Mật dông có vị béo nhân nhẩn và để lại cái hậu thật ngọt. Trứng dông rất béo, bùi bùi dùng không ngán, được xem là một loại sơn hào hải vị.

   Dông nướng chấm muối ớt chanh, kèm với lá xoài dông vừa cay lại vừa chua, có hương vị đặc trưng. Xương dông rất mềm, nhai trong miệng lụp bụp, nhâm nhi với ly rượu thuốc thật thú vị.

   Thưởng thức dông 7 món phải tuân theo thứ tự, trước hết là gỏi, hấp, rôti... và cháo dông là món sau cùng vừa ấm bụng mà lại cảm nhận được hương vị của từng món ăn.

Món dông nướng của nhà hàng Sóng Biển


_MG_1342
(Ảnh: Dông nướng Sóng Biển)
Bên cạnh thực đơn hải sản, nhà hàng Sóng Biển (đường Lê Lợi, thành phố Phan Thiết) còn hấp dẫn thực khách xa gần bởi các món ăn chế biến từ con dông, trong đó thơm ngon và đậm đà hương vị miền biển nhất là món Dông nướng.
Con dông là một động vật bò sát sống hoang dã, thích nghi với vùng đất cát hoang mạc. Tại Bình Thuận, con dông đào hang sống trong những đồi cát, động cát ven biển ở các huyện Bắc Bình, Tuy Phong, Hàm Thuận Bắc, Phan Thiết. Từ các triền cát nóng bỏng ánh nắng, dông được cung cấp cho nhà hàng Sóng Biển để các đầu bếp chế biến thành món Dông nướng hấp dẫn.
Theo đầu bếp Trương Thị Ngọc Mai, để món dông nướng trọn vẹn vị thơm ngọt của thứ thịt trắng phau của loài bò sát này, trước khi ướp gia vị dông phải được nhúng qua nước sôi để làm mềm các thớ thịt cũng như dễ lột lớp da ‘rằn ri” bên ngoài. Sau đó, dông được cắt bỏ phần đuôi và lấy sạch các phần bên trong  rồi mới đem ướp gia vị trong vòng 30 phút cho thấm đều.
_MG_1341
(Ảnh: Đầu bếp Mai hướng dẫn nướng dông)
Gia vị ướp cho món dông nướng gồm các nguyên liệu như ớt xay nhuyễn, ớt bột, bột nêm và ít đường. Thành phần gia vị này ngoài tạo nên sự ngon miệng cho món ăn còn làm cho thịt dông nướng có màu đỏ tươi rất bắt mắt. Dông được nướng trên các bếp lửa than vói yêu cầu ngọn lửa vừa phải để thịt dông được chín đều, cho màu nâu đỏ, thơm lừng. Thưởng thức món dông nướng tại nhà hàng Sóng Biển kèm với rau thơm, bún, cuốn bánh tráng mè và chấm mắm me. Vị thơm ngọt rất lạ của dông, vị cay nồng của ớt và rau thơm, vị béo của bánh tránh mè hòa quyện cùng vị chua ngọt của mắm me tạo nên một món ăn ngon, bổ dưỡng và đậm đà hương vị biển. Điểm độc đáo của món dông nướng ở Sóng Biển là “khuyến khích” thực khách dùng tay khi thưởng thức để vừa cảm nhận đầy đủ sự mộc mạc của một món ăn dân dã, vừa tự mình trải nghiệm và khám phá nhiều điều lý thú của thành phố biển xinh đẹp Phan Thiết.
Hãy đến thành phố biển và một lần trải nghiệm và tận hưởng món dông nướng cùng người thân và bạn bè tại Nhà hàng Sóng Biển. Với không gian biển đẹp, rộng rãi và kề bên khu du lịch nổi tiếng Đồi Dương – Thương Chánh; với đội ngũ nhân viên phục vụ chuyên nghiệp và chu đáo chắc chắn Nhà hàng Sóng Biển sẽ làm hài lòng mọi thực khách.
Nhà hàng Sóng Biển, số 162 đường Lê Lợi, phường Hưng Long, Tp.Phan Thiết (điện thoại: 0623.829.358) trân trọng kính mới Quý khách!

Thứ Hai, 7 tháng 11, 2011

Nuôi dông để đổi đời


Nhiều năm trước, con dông ở vùng "sa mạc" Hòa Thắng (huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận) chỉ là loài vô danh tiểu tốt. Đến khi du lịch phát triển, dông lên đời vì trở thành món đặc sản hấp dẫn khách phương xa.
Bắt dông bán được tiền nên phong trào đào đất khui hầm săn dông phát triển rầm rộ. Đến khi con dông vắng bóng trên các động cát, quay lại với những cánh đồng cằn cỗi vì nắng hạn, người dân Hòa Thắng quay quắt với bữa đói bữa no. "Khoảng 2 năm trở lại đây, điệp khúc đói nghèo ở Hòa Thắng đã sang trang trước sự phát triển của nghề nuôi dông. Nhiều người từ khó nghèo nay đã có của ăn của để cũng nhờ con dông xứ cát" - ông Trương Quang Thọ, Phó Chủ tịch xã Hòa Thắng, cho biết. 
Chúng tôi ghé nhà chị Võ Thị Mến, ngụ thôn Hồng Lâm, một trong những điển hình nuôi dông thành công ở xã Hòa Thắng. Chị Mến cho biết nhà chị có 2 sào ruộng nhưng vì đất đai bạc màu, nắng hạn triền miên, việc canh tác hoàn toàn phụ thuộc vào nước trời mỗi năm chỉ làm một vụ nên năng suất thấp kém, khi được giá thì mất mùa, lúc được mùa thì mất giá, nên dẫu cả gia đình làm việc cật lực nhưng nhiều năm vẫn không "cất đầu lên nổi".
Sau nhiều năm quanh quẩn với cuộc sống nghề nông nghèo khó không có lối ra, đầu năm 2009, thấy một số người dân trong xã nhờ nuôi dông mà phất lên trông thấy nên chị Mến bàn với chồng "bắt chước người ta". Sau khi khoe đợt thu hoạch dông vào trung tuần tháng 10 được gần 20 triệu đồng, chị Mến chia sẻ: "Vay mượn được gần 20 triệu đồng, tôi đầu tư xây dựng chuồng trại, mua dông giống thả nuôi. Hằng ngày ông xã tôi đi hái rau, bứt cỏ, đào trùn cho dông ăn. Nuôi được gần 2 năm thì những con dông bé tí tẹo nhỏ như con thằn lằn tăng trọng cỡ 3 con một ký (3 con/kg), lái thu vào một ký 280.000 đồng. Bán hết một mớ, tôi hiện còn 70kg dông thịt, tương đương 20 triệu đồng và còn nhân được khoảng 5kg dông giống, mỗi ký xuất cho người nuôi hiện cũng được xấp xỉ 500.000 đồng".

Nghề nuôi dông ở Bình Thuận đang mở ra cơ hội thoát nghèo.

Cùng niềm vui với chị Mến, chị Võ Thị Hòa ở thôn Hồng Lâm hân hoan tâm tình sau nhiều năm bí lối làm ăn, con dông là cứu tinh giúp gia đình chị và người dân ở xã tự tin mơ tới một ngày mai khá giàu. "Ông xã tôi là dân săn dông thứ thiệt ở vùng đất này" - chị Hòa bật mí: "Những khi trời nắng hạn không thể trồng trọt gì được, vậy là ổng cùng nhiều người khác nhóm lại đi đào dông bán cho các đoàn khách du lịch. Bắt riết rồi dông cũng sạch, khi ấy một người trong nhóm săn dông với ổng mới nghĩ chuyện nuôi dông và đã nhân giống thành công. Thấy nghề này có triển vọng nên vợ chồng tôi huy động vốn quyết sống chết với nghề".
Khoảng giữa năm 2009, thay vì làm đất rải hạt như người ta, vợ chồng chị Hòa mua tôn về quây chuồng rồi thả dông giống và thành công ngoài mong đợi. Tổng số vốn đầu tư lúc ban đầu là 46 triệu đồng, đến khoảng tháng 6/2010 vợ chồng chị xuất dông thịt được hơn 30 triệu đồng.
Hiện vợ chồng chị Hòa còn ngần ấy dông thịt, nếu nuôi thêm 1 tháng nữa thì khả năng sẽ thu về xấp xỉ 50 triệu đồng. Đó là chưa kể số dông con trị giá hơn chục triệu đồng. Chị Hòa khẳng định: "Con dông rất dễ nuôi và thu lợi cao. Nghề này hễ vào cuộc chỉ có thắng với thắng".
Theo thống kê của UBND xã Hòa Thắng, nghề nuôi dông ở địa phương rộ lên từ đầu năm 2008 đến nay. Toàn xã hiện có 120 hộ nuôi dông trên diện tích khoảng 20ha. Ông Nguyễn Thanh Lâm, cán bộ văn phòng xã, cho biết: "Dông là loài bò sát dễ nuôi, ít bệnh tật, ăn được nhiều loại thức ăn, từ rau, cỏ, củ quả các loại đến các loại côn trùng. Hiện nghề nuôi dông ở địa phương ngày một phát triển nhờ đầu ra của dông giống lẫn dông thịt ổn định. Không chỉ phục vụ thị trường tỉnh Bình Thuận, con dông còn được xuất đi các tỉnh lân cận, đặc biệt là thị trường TP Hồ Chí Minh"

Thứ Bảy, 5 tháng 11, 2011

Dông 3 món đặc sắc

GỎI DÔNG :
Làm gỏi dông rất công phu, phải có "bí quyết" nhà nghề mới chế biến được. Làm sạch ruột, lột da, đưa vào lò nướng, khi thịt dông vàng mới lấy ra. Sau đó băm nhuyễn, xào chín và trộn với trái cóc hoặc xoài cắt chỉ nhỏ, rau thơm, đậu phộng rang giòn và đặc biệt phải có "lá xoài dông", một thứ lá cây mọc trên các vách đá vùng khô hạn, có vị chát. Gỏi dông ăn chung với bánh tráng dày, nhiều mè, xúc mãi không chán.
 Khi làm món gỏi Dông, Dông được đem nhúng nước sôi rồi lột lớp da giấy bên ngoài (dân địa phương gọi là da đất), tiến hành rửa và "mổ bụng" (đặc biệt sau khi mổ không được rửa nước vì như vậy thịt Dông sẽ rất tanh). Sau đó Dông được đặt lên vỉ và nướng, lửa không được quá già vì như thế sẽ làm cháy Dông, khi ăn thịt Dông sẽ giảm vị ngọt. Trong quá trình nướng Dông mọi gia vị như lá me non, rau răm, tiá tô, húng thái nhỏ chuẩn bị là vừa. Nếu có lá cóc rừng thái nhỏ thì thật là đúng "hệ", nhưng lá cóc rừng vốn khó kiếm nên ít được phổ biến. Nước mắm, gừng, tỏi, ớt, đường được chế biến thật kẹo, cay ngọt phải đậm sẽ làm tăng thêm vị ngọt của thịt Dông. Dông nướng xong, thịt được xé nhỏ (giống xé phay thịt gà) trộn đều với gia vị và rưới thêm chút dấm, như vậy ta đã có món gỏi Dông. Gỏi Dông được cuốn với bánh tráng sống (nhúng nước để cho mềm) và chấm nước mắm thì thật là tuyệt hảo.

Nếu như món gỏi Dông mang dáng dấp bình dân thì Dông chiên lăn bột hay chả Dông lại mang dáng dấp cao lương mỹ vị mà ta thường gặp trong các nhà hàng hay các tiệm ăn sang trọng. Dĩ nhiên các món này gia vị đòi hỏi phải nhiều và đắt tiền như: bột mì, trứng gà (hay trứng vịt), mỡ (hoặc bơ), bột ngọt, ngũ vị hương hay các thứ màu mè khác. Nhưng đa số người dân địa phương vẫn yêu thích những món bình dân cực kỳ ngon lành do tự tay họ chế biến

2. LẨU DÔNG :
Làm thịt dông, rửa sạch, chặt thành từng miếng tùy theo ý thích, rồi ướp gia vị cho thấm mới nấu món ăn. Để thêm hương vị đậm đà có người lại đem thịt dông băm nhỏ cùng ớt, hành củ có lá và ướp đường, nước mắm, muối. Trộn chung với bột năng, thêm chút nước rồi giã nhuyễn. Sau đó, vò lại thành viên cỡ nào cũng được. Chiên sơ qua dầu hơi vàng. Lá me chua rửa sạch, lặt bỏ cọng, lấy lá non, vò giập giập. Cho vào nấu nước lẩu cùng các gia vị: hành, tỏi giã giập, ít muối tiêu, nêm tí bột ngọt nếm vừa miệng ăn. Ăn lẩu dông lá me cũng phải biết cách: cho bún vào tô, gắp thịt dông cho vào, múc nước lẩu chan đều, kèm ít cọng rau sống, ăn nóng rất ngon. Nếu chưa vừa miệng, bạn có thể thêm nước mắm ngon dầm ớt xiêm, cay cay hít hà mới đã. Nhưng vị ngọt lự chính là thứ nước lẩu còn sau cùng, chưa dùng hết xem như chưa biết món lẩu dông lá me
3.DÔNG NƯỚNG:
Hấp dẫn hơn là món dông nướng. Có hai cách để làm dông nướng, tùy theo yêu cầu của khách hàng. Dông nướng để nguyên da, và dông nướng ướp muối ớt sau khi đã lột da. Ngon nhất trong con dông nướng là mật và trứng dông. Mật dông có vị béo nhân nhẩn và để lại cái hậu thật ngọt. Trứng dông rất béo, bùi bùi dùng không ngán, được xem là một loại sơn hào hải vị.
Thịt dông thơm, mềm và có vị ngòn ngọt, gần giống như thịt gà nên còn được gọi là “gà đất”. Khi chế biến, người ta có thể ướp thịt dông với sả và gia vị rồi đem nướng, hoặc có thể làm món dông bằm xúc bánh tráng.

Nguyên vật liệu:

_ 1 con kỳ nhông rừng
_ 3 quả cà chua
_ 1 củ hành mọc vùng hoang mạc (trắng hoặc vàng)
_ 1/2 pounds nấm vùng hoang mạc
_ 1/2 thìa cafe xì dầu
_ muối
_ que nướng

Chú thích: có thể thay thế thịt kỳ nhông rừng bằng vật liệu khác
Hướng dẫn thực hiện:

Con kỳ nhông phải còn sống nguyên. Hãy hù doạ cho nó sợ hãi, điều này sẽ làm chất hoang dã thấm vào thịt nó, cho ta một hương vị rất đăc biệt. Sau đó tốt nhất nên dùng vật nặng gõ 1 phát ân huệ vào đầu nó để chuẩn bị bước vào khâu chế biến.

Lưu ý: Đừng giết con kỳ nhông bằng Plasma Gun. Kết quả sẽ không như ý muốn
_ luộc con kỳ nhông 3 phút, sau đó lột da, làm sạch bộ đồ lòng
_ ướp xì dầu trong vòng 5 phút
_ xâu thịt và cà chua đã cắt miếng vào que
_ nướng trên lò nướng cho đến khi vàng rụi, ta co thê thưởng thức
_ dành cho ghoul và mutant: sau khi nướng có thể hơ trên chất thải phóng xạ vài phút.
KỲ NHÔNG HẦM THUỐC BẮC
nhưng khúc thịt được chặt khoanh tẩm ướt gia vị 1 lát sau cho vào niêu  , hầm với nhục thung dung ,ba kích , kỷ tử, đương quy, đảng sâm ... lên màu hấp dẫn ngon hơn là cái chất rồng đất của nó
Độc đáo chả dông
Với 5 con dông sống, bạn có thể chế biến món này cho 5 người lai rai ngon lành. 100g giò sống, lá xào dông, hành tím, tỏi, sả, ớt, nước mắm, bột ngọt, tiêu và dầu ăn.
Đem dông lột da, rửa sạch, bằm nhỏ rồi ướp với nước mắm, hành tím, tỏi, sả, tiêu, bột ngọt, lá xào dông. Thời gian ướp 5 phút, cho giò sống với thịt dông vào xay chung thật nhuyễn. Viên thành từng viên. Bắc chảo lên bếp nóng, cho dầu vào đun sôi, cho từng viên lên chảo dầu chiên chín vàng là được. Món này ăn kèm với cơm rất ngon.

 

Thứ Tư, 2 tháng 11, 2011

Thịt dông 7 món


In Email
Ðặc sản của đồi cát là dông. Dông sống trong hang, sáng tinh mơ ra đồi cát tìm ăn chồi non và uống sương đêm, vì thế mà thịt thơm, săn và ngọt, được xem là một vị thuốc bổ. Thịt dông trắng như thịt gà, mà lại ngọt, bùi và mềm hơn. Xương rất mềm, gần như là sụn. Còn da thì dòn sừn sựt. Tuy nhiên khi chế biến người ta thường lột vứt bỏ vì trông không bắt mắt.
dong-2
Người Ninh Thuận chế biến 7 món thịt dông: Dông nướng, dông rô ti, dông hấp, chả dông, gỏi dông, cháo dông và dông nấu dưa hồng. Món nào cũng ngon. Tuy nhiên, quý bà quý cô có phần ngần ngại khi nhìn những con dông nướng, rô ti hay hấp còn nguyên cả đầu, bốn chân và cái đuôi dài dài. Nhưng đến món gỏi hay chả, khi dông được bằm nhuyễn thì dầu có nhát gan cũng chẳng mấy ai từ chối.

Thật vậy, như với món gỏi dông để nguyên xương được bằm nhỏ, xào chín và trộn với cóc hoặc xoài xắt chỉ, rau thơm, đậu phụng rang dòn, nước mắm pha và đặc biệt phải có lá xào dông, một thứ lá trông giống lá chùm ruột non, sống trên vách đá vùng khô hạn, mùi thơm thoảng vị chát. Gỏi dông ăn với bánh tráng nướng, thứ bánh tráng dày, nhiều mè, nướng vàng rụm, xúc mãi không chán.
dong-1
Nhưng theo dân sành điệu thì thức ngon nhất trong con dông là mật và trứng. Mật dông có vị béo nhân nhẫn và để lại cái hậu thật ngọt. Trứng dông rất béo, rất bùi mà không ngậy, được xem là một loại sơn hào hải vị. Chẳng thế mà chuyện ngày xưa kể rằng ở làng Mỹ Tường, trong lễ vật thách cưới phải có một thúng trứng dông, những cái trứng chỉ to bằng đầu ngón tay út! rất may tục lệ này đã bị bãi bỏ chứ nếu không thì hẳn trai Mỹ Tường ngày nay nhiều người phải chịu cảnh phòng không. Hầu hết các nhà hàng, quán đặc sản ở Phan Thiết đều có món dông.  Nhiều quán nhậu ở Sài Gòn cũng có những món ngon đặc sắc này.