Trang trại Bảy Đức - Đ/c: Thôn Tiến Hiệp, xã Tiến Lợi, Phan Thiết, Bình Thuận




Cung cấp dông giống cho hộ gia đình muốn phát triển nghề nuôi dông và hướng dẫn phương pháp nuôi.

Cung cấp dông thịt cho nhà hàng, quán ăn có chất lượng, uy tín, giá phải chăng.

Liên hệ: Trang trại ông Bảy Đức. Địa chỉ: Thôn Tiến Hiệp - xã Tiến Lợi - Phan Thiết - Bình Thuận.

Điện thoại nhà: 062.3.729.964. Điện thoại di dộng: 0188.917.3137. Email: Thanhthuydpi@yahoo.com.vn. Nickchat yahoo: Thanhthuydpi

Con Dông là nguồn thực phẩm tự nhiên vô giá và là đặc sản đặc sắc của vùng ven biển Phan Thiết - Bình Thuận quê tôi. Mời các bạn ghé thăm trang Blog để biết thêm về loài Dông, các món ăn đặc sắc từ Dông và kỹ thuật nuôi dông.

Thứ Tư, 7 tháng 12, 2011

Con dông trên đất Hồng Phong
BT- So với cách đây vài ba năm thì bộ mặt của xã Hồng Phong hôm nay đã có nhiều thay đổi, những tiện nghi phục vụ cho cuộc sống đồng bào giờ đã tương đối. Cái nghèo không còn bám chân, nhiều người trong xã đang tính chuyện làm giàu trên mảnh đất vốn không được thiên nhiên ưu đãi. Phát triển nhất là công việc chăn nuôi, chuyện những gia đình sở hữu đàn dê hay bò từ 50 - 100 con là hình ảnh thường thấy trong xã. Bên cạnh đó là phong trào nuôi dông đang nở rộ…
Con dông xưa nay vốn là đặc sản quen thuộc của vùng đất gió cát Khu Lê này, thịt dông hiện đang là một món ăn ưa thích của những người sành ẩm thực trong nước với nhiều tên gọi rất kêu: rồng đất, thần sấm... Dông phù hợp với khí hậu thổ nhưỡng nơi đây nên dễ sinh sản. Ngày xưa, bẫy dông cũng là cái nghề quen thuộc với người dân nơi đây, nhưng nguồn dông tự nhiên rồi cũng cạn kiệt dần khi cung không đủ cầu, từ đó, ý tưởng nuôi dông đã nảy sinh. Lúc đầu, tuy chưa có ai hướng dẫn về kỹ thuật nuôi dông, nhưng đã có hàng chục hộ trong xã đã bỏ ra hàng trăm triệu đồng để đầu tư xây tường rào và mua giống về thả. Anh Nguyễn Văn Châu, năm nay mới 36 tuổi nhưng đã có gần 6 năm với nghề nuôi dông. Trong khu vực nuôi dông 2.000m2 được xây tường bao bọc. Châu đã thả 2.000 con giống. Giá mỗi con dông giống là 8.000đồng/con, giá thành của 2.000 con giống không phải là số tiền nhỏ, nhưng theo anh: Nuôi dông không lỗ, vì dông mau phát triển, lại ít dịch bệnh… Thức ăn của dông cũng đơn giản với các loại rau muống, rau lang, có khi thiếu rau, Châu đi hái các loại rau tự nhiên như rau muống biển, cỏ cúc… dông cũng không chê.
Ảnh minh họa
Sáng sớm, trong khu vực nuôi dông của Châu, hàng trăm con dông đủ màu sắc từ dưới đất chui lên giành ăn trông thật vui mắt. Tuy là dông nuôi nhưng bản chất dông vốn nhút nhát, vừa thấy bóng người là lủi nhanh như điện xẹt. Tôi thấy trong đàn có nhiều con đã to khoảng 2,5 lạng. Châu bảo: Giá dông hiện tại không dưới 350.000 đồng/ký, nhưng anh chưa bán vì muốn phát triển giống để tăng số lượng. Con dông vốn không khó tính với môi trường sống, chỉ cần trồng thêm ít cây đào hoặc trứng cá trong khu vực nuôi để tạo bóng mát là dông đã có thể thích nghi được. Vì dông sống chui dưới hang nên không có người chủ nuôi nào biết đích xác số lượng đàn dông của mình đã phát triển được bao nhiêu con.
Ghé thăm khu vực nuôi dông của anh Nguyễn Văn Bảy, anh cho biết khu vực nuôi dông của anh mới đầu tư xây tường và mua giống khoảng 100 triệu đồng. Tuy diện tích nuôi còn nhỏ nhưng cách nuôi của anh có vẻ bài bản hơn. Trong khi những người nuôi dông trong xã chỉ cho dông ăn rau lang, rau muống, có khi cả rau dại, thì anh lại nuôi dông bằng các loại rau sang hơn như cà chua, giá, bí đỏ… ngày nào anh cũng chạy về Mũi Né để mua thức ăn cho dông. Không biết thịt con dông do anh Bảy nuôi có khác vị khi ăn những thức ăn này hay không nhưng chắc một điều là dông không thể bỏ đi nơi khác vì tìm đâu ra những thức ăn quen thuộc.
Hiệu quả kinh tế của nghề nuôi dông ở Hồng Phong đã rõ, nhưng câu nói của anh Mai Thanh Hải, Chủ tịch UBND xã làm tôi nghĩ mãi trên chặng đường về: Hồng Phong hiện có hơn 10 ha nuôi dông thịt, phát triển nghề nuôi dông để thoát nghèo là điều hay, nhưng cái hay hơn nữa là làm sao giữ con dông còn mãi ở vùng đất chiến khu này…

Chủ Nhật, 4 tháng 12, 2011

Bình Thuận: Triển vọng từ nuôi dông



Dông là đối tượng nuôi được nhiều nông dân Thuận Quý lựa chọn nhờ hiệu quả kinh tế cao.
KTNT - Dông là loài bò sát thích nghi với môi trường tự nhiên vùng ven biển, trên các cồn cát, dễ nuôi và được thị trường ưa chuộng.
Hiện nay, nhiều hộ dân ở xã Thuận Quý, huyện Hàm Thuận Nam (Bình Thuận) đang chọn đối tượng này để nuôi, từ đó thoát nghèo, làm giàu.
Những năm trước, đào, bẫy dông trở thành nghề có thu nhập cao ở các xã ven biển Bình Thuận. Người dân rủ nhau đi "săn" dông từ nhỏ đến lớn để bán cho các nhà hàng, khách sạn, dẫn đến nguy cơ "xoá sổ" đàn dông. Tuy nhiên, khoảng 2 năm trở lại đây, phong trào nuôi thuần dưỡng dông tự nhiên khá phát triển. Nhiều hộ đã làm giàu từ mô hình này.
Anh Nguyễn Văn Quanh ở thôn Thuận Cường, xã Thuận Quý tâm sự: “Thấy nhiều người nuôi dông đem lại hiệu quả kinh tế cao nên tôi đã mạnh dạn đầu tư chuồng trại, nuôi trên diện tích 1.000m2, ban đầu thả 3kg dông giống (khoảng 10 con/kg), với giá gần 500.000 đồng/kg. Đến nay, đàn dông phát triển lên tới hơn 1.000 con, mỗi tháng xuất bán 20kg với giá bình quân 400.000 đồng/kg, gia đình tôi thu về gần 8 triệu đồng”. Anh Quanh cho biết thêm, dông là loài động vật hoang dã nhưng dễ thuần dưỡng, ít bị dịch bệnh, thức ăn lại dễ kiếm nên ai cũng có thể nuôi được.
Khi nuôi dông, người dân xã Thuận Quý thường đào sâu xuống đất khoảng 0,5m, dùng gạch xây cao từ 1,2-1,5m, dưới đáy tráng một lớp xi-măng dày khoảng 2-3cm để dông không thể đào hang chui đi và phải đảm bảo không bị đọng nước vào mùa mưa. Tiếp đó, đổ thêm một lớp cát dày khoảng 0, 5m. Trên bề mặt có thể đắp thành gứ, trồng cỏ và cây trứng cá tạo bóng mát và tạo thức ăn cho dông (khi trái trứng cá chín rụng). Vào mùa nắng, nên xịt nước vào chuồng mỗi sáng để tạo độ ẩm và tạo thói quen cho dông lên ăn khi trời mưa. Chúng thường ăn các loại rau, quả như rau muống, khoai lang, cà chua, dưa hồng..., đặc biệt, chồi non xương rồng và cỏ dại được xem là món "khoái khẩu" nhất của dông.
Anh Nguyễn Thành Đệ, người có thâm niên trong nghề nuôi dông cho biết, mô hình nuôi dông rất phù hợp với những vùng có nhiều cồn cát như Thuận Quý. Dông sinh sản nhanh, mau lớn và ít bị bệnh nên không cần chăm sóc nhiều (chỉ đề phòng mèo, chuột cống và rắn). Tỷ lệ sống của dông khá cao, đạt 90-95%. Trung bình mỗi năm dông đẻ 2 lần, mỗi lần 6-8 trứng, khoảng 1 tháng sau trứng nở ra dông con. Đến năm kế tiếp, đàn dông con trưởng thành và lại tiếp tục sinh sản. Từ số dông giống ban đầu vẻn vẹn vài chục con, sau gần 10 năm, số lượng của anh Đệ đã lên tới trên 10.000 con. “Hầu như ngày nào các nhà hàng cũng đặt mua dông của tôi, trừ chi phí, gia đình lãi trên 300 triệu đồng/năm”, anh Đệ phấn khởi nói.
Trao đổi với chúng tôi, anh Lương Thanh Dũng, Phó chủ tịch UBND xã Thuận Quý cho biết, toàn xã hiện có khoảng 100 hộ đầu tư nuôi dông, với số lượng lên đến khoảng 1 triệu con. Việc nuôi dông không những mang lại hiệu quả kinh tế cao mà còn có tác dụng hồi phục và bảo vệ nguồn sinh vật tự nhiên. Vì thế chính quyền xã Thuận Quý đang khuyến khích bà con phát triển mô hình này.

Thứ Sáu, 2 tháng 12, 2011

Món Gỏi Dông

Làm gỏi dông rất công phu, phải có "bí quyết" nhà nghề mới chế biến được. Làm sạch ruột, lột da, đưa vào lò nướng, khi thịt dông vàng mới lấy ra. Sau đó băm nhuyễn, xào chín và trộn với trái cóc hoặc xoài cắt chỉ nhỏ, rau thơm, đậu phộng rang giòn và đặc biệt phải có "lá xoài dông", một thứ lá cây mọc trên các vách đá vùng khô hạn, có vị chát. Gỏi dông ăn chung với bánh tráng dày, nhiều mè, xúc mãi không chán.
Đặc biệt, vào khoảng tháng ba, tháng tư âm lịch, ở Bình Thuận có món canh chua lá me non dùng để trộn gỏi  hoặc nấu với nhông rất đặc trưng vì một năm chỉ vài tuần có lá me non để nấu món này. Trứng nhông chiên bơ cũng là món ăn cao cấp đắt tiền, mật nhông dùng làm thức ăn dân gian đặc trị bệnh suyễn. Với dân sành ăn, thịt nhông rưới thêm bơ hoặc mỡ, đem chiên hoặc nướng rồi thưởng thức với rau thơm kèm một vài ly rượu cay cay, âm ấm là đủ ngon lắm rồi.

Dông là loại bò sát sinh sống trong hang trên những vùng đồi cát nóng. Thức ăn chính của con dông chủ yếu là chồi non từ cây xương rồng, cỏ dại. Người dân địa phương đặt bẫy hoặc đào bắt chúng ở trong hang dưới lòng đất sâu chừng 1,5m. Thịt dông thơm, trắng như thịt gà, rất ngon và ngọt, béo ngậy, có vị bùi, chắc, xương rất mềm nhưng da thì dòn sừn sựt.
                                                                                                      

Thứ Năm, 1 tháng 12, 2011

Nuôi Dông làm giàu

Bền bỉ học hỏi, ông Mai Văn Tòng thành công với nghề nuôi dông và giúp nhiều người tự tạo việc làm

Loay hoay cho những chú dông giống vào chiếc bao cước, anh Lưu Võ Hoàng Vân (ngụ huyện Cần Giuộc - Long An), cho biết: “Thấy chú Tư làm ăn được nên tôi học làm theo. Nhờ kinh nghiệm truyền đạt của chú mà tôi đã xây dựng chuồng trại, bước đầu thử nghiệm nuôi loài dông này. Tôi nghĩ vùng đất Long An sẽ phù hợp để đàn dông sinh trưởng tốt”.  
Bỏ chồn tìm dông
Chú Tư mà anh Lưu Võ Hoàng Vân nhắc đến là ông Mai Văn Tòng, cán bộ hưu trí ở ấp 2, xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn - TPHCM. Người dân ở đây thường gọi ông là chú Tư nuôi dông, bởi ông là người duy nhất ở ngoại thành nuôi loài vật này thành công.
Đưa tôi ra vườn, nơi những chuồng nuôi dông được bao phủ bởi 4 bức tường cao, bên dưới phủ cát dày, ông dặn: “Phải đi thật khẽ, nếu không dông trốn hết vào hang”. Đúng như lời ông, khi tôi vừa ló đầu qua khỏi bức tường rào, định đưa máy ảnh lên chụp thì hàng ngàn con dông lớn, nhỏ bỏ chạy, chui tọt vào hang. 
Ông Mai Văn Tòng với đàn dông giống chuẩn bị bán cho khách
Trước khi đến với nghề nuôi dông, ông Mai Văn Tòng từng nuôi nhiều loài động vật hoang dã như chồn hương, heo rừng... nhưng không thành công bởi chúng rất khó nuôi lại chăm sóc cực. Năm 2009, trong một chuyến về thăm người bạn cũ ở xã Hòa Thắng, huyện Hàm Thuận Nam - Bình Thuận, ông được bạn giới thiệu mô hình nuôi dông trên cát.
Khi tham khảo mô hình của bạn, ông chợt nghĩ: “Tại sao không biến mảnh đất bấy lâu nay nuôi chồn, heo vốn không có hiệu quả kinh tế thành nơi nuôi dông vì loài vật này không bị bệnh mà cũng không tốn quá nhiều chi phí?”. Trở về, ông bắt tay cải tạo 1.600 m2 đất vườn, xây tường, đổ cát và trồng cây trứng cá để nuôi dông. Ông lý giải việc trồng cây trứng cá: “Dông rất thích ăn những trái ngọt và mềm, nhất là trái trứng cá. Nhờ trái trứng cá mà lượng thức ăn phải mua đã giảm rất nhiều, tiết kiệm được chi phí”.
Dễ nuôi, dễ bán
Tháng 5-2009, ông ra Cam Ranh mua 200 kg dông giống về nuôi thử nghiệm. Ông thường tìm đến các chợ đầu mối để mua dưa hấu, lá rau muống, cải, giá về làm thức ăn cho dông. Không ngờ, chỉ một năm sau, những chú dông giống ngày nào đã đạt trọng lượng 4-6 con/kg. Khi đàn dông trưởng thành cũng là lúc ông đối diện với thực tế: Tìm đầu ra cho sản phẩm.
Ông lần lượt liên hệ các nhà hàng để giới thiệu sản phẩm và không ngờ, một số chủ nhà hàng ở Bến Lức - Long An liền đặt mua dông thịt với giá 350.000 đồng/kg. Họ còn đặt hàng ông thường xuyên. Ông tâm sự: “Khi ấy, tôi vui lắm vì dông được mọi người biết đến. Lần lượt, nhiều nhà hàng ở TPHCM, Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước tìm mua đến nỗi tôi không đủ hàng để cung cấp”.
Tôi đang vận động người dân quanh vùng có đất trống cùng nuôi dông. Như thế, ngoài việc bảo đảm nguồn cung ứng cho các nhà hàng, khách sạn, mô hình này sẽ giúp nhiều người dân ngoại  thành vượt khó.
Ông Mai Văn Tòng
Theo ông, dông thuộc họ kỳ nhông, thịt trắng, dai và bổ nên thực khách rất ưa thích. Mỗi năm, dông đẻ 2-3 lần, mỗi lần đẻ từ 6-8 trứng. Khoảng 30 ngày, trứng nở thành con, sau 4 - 5 tháng, dông có thể xuất chuồng nên đem lại thu nhập cao cho người nuôi. Dông cũng là loài dễ nuôi, khi bị bỏ đói nhiều ngày, chúng không chết và đặc biệt không mắc bệnh dịch như những loài động vật khác nên phù hợp với người lớn tuổi. Ông cho biết: “Muốn dông mập, nhanh lớn, ngoài cho ăn các loại rau, quả, mỗi tuần 2 lần nên cho chúng ăn thêm thức ăn nuôi cá. Nơi nuôi dông phải thoáng mát, có đủ ánh sáng để dông lên tắm nắng”.
Nhân rộng nghề
Sau 2 năm thử nghiệm nuôi dông, đến nay, ông Mai Văn Tòng đã cung cấp cho thị trường 200 kg dông thịt và gần 100 kg dông giống. Ngoài ra, ông còn truyền kinh nghiệm cho nhiều bà con ở TPHCM và các tỉnh Long An, Bình Dương, Bình Phước, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu...
Nhà ông thường xuyên có khách lui tới. Tận mắt chứng kiến nhiều khách hàng chờ để được mua đàn dông giống, tôi nhận ra ông đã chọn hướng đi đúng bởi mô hình nuôi dông của ông không tốn nhiều chi phí lại có thu nhập cao. Anh Nguyễn Văn Trung, một khách hàng đến từ Trà Vinh, nói: “Tôi biết chú Tư qua mô hình nuôi dông thành công của một người bạn. Nhờ anh ấy chỉ dẫn mà tôi tìm đến đây để mua giống. Hy vọng mô hình này sẽ giúp ba mẹ tôi có thêm thu nhập khi về già”.

Dông nướng lá lốt



- Dông nướng lá lốt hoặc ram: Cũng cách làm thịt dông, bằm nhuyễn, gia vị như trên, rồi dùng lá lốt cuốn thịt vào trong. Cuốn xong, xếp một lớp lá lốt lên vỉ, rồi đặt từng cuốn thịt dông cuốn lá lốt vào, sau đó lại phủ lên trên vỉ một lớp lá lốt nữa rồi kẹp vỉ lại, nướng nhỏ lửa. Mùi thịt dông nướng lá lốt bay lên thơm ngào ngạt. Dẫu ai đó có cữ thịt dông vì cho rằng sợ thịt độc cũng muốn nếm thử xem thịt dông ra làm sao. Quả thật, dông nướng lá lốt ăn rất ngon, uống với vài ly rượu gạo thì càng tuyệt.
Món ram (nem) nhông. Cũng với quá trình sơ chế như món nhông nướng, nhông sau đó được bằm nhuyễn ướp với nén và ớt giã nhuyễn, thêm chút muối, bột nêm rồi đem gói ram sau đó chiên lên. Ram (nem) nhông quấn với bánh tráng mỏng, rau sống, ăn kèm với nước mắm đã qua pha chế. Có được chén nước mắm ngon ăn kèm với ram nhông không phải là dễ. Mắm chấm phải cay cay, ngòn ngọt, mặn mặn và sánh mới ngon. Ram (nem) nhông, rau sống chấm nước mắm mới thấy được cái đậm đà của món ăn.
- Dông xào sả:Dông sau khi làm thịt xong, chặt miếng to cở 2 ngón tay, ướp gia vị cho thật cay, cùng với nghệ bột, đập vài củ sả ướp chung vào. Khử dầu tới đổ thịt vào xào đảo đều tay, khi thịt chín, xắt một ít rau thơm cho vào, nêm nếm vừa ăn nhắc xuống. Dông xào sả ăn với bánh tráng nướng rất ngon.

Dông nướng Các Nơi

Có hai cách để làm dông nướng, tùy theo yêu cầu của khách hàng. Dông nướng để nguyên da, và dông nướng ướp muối ớt sau khi đã lột da. Ngon nhất trong con dông nướng là mật và trứng dông. Mật dông có vị béo nhân nhẩn và để lại cái hậu thật ngọt. Trứng dông rất béo, bùi bùi dùng không ngán, được xem là một loại sơn hào hải vị.
 
Tương truyền, ở làng Mỹ Tường (Ninh Thuận), nơi có rất nhiều dông sinh sống, trong lễ vật thách cưới vợ của người dân địa phương phải có một thúng trứng dông, những cái trứng đó chỉ to bằng đầu ngón tay út trẻ em. Rất may tục lệ đó đã bị loại bỏ, nếu không thì nhiều trai làng Mỹ Tường ngày nay đã... ế vợ!
Dông nướng chấm muối ớt chanh, kèm với lá xoài dông vừa cay lại vừa chua, có hương vị đặc trưng. Xương dông rất mềm, nhai trong miệng lụp bụp, nhâm nhi với ly rượu thuốc thật thú vị.
                                                                       
Món dông nướng thoạt nhìn thấy hơi “ớn lạnh” vì vẻ bề ngoài sần sùi, song khi đã ăn rồi bạn không muốn gác đũa và thậm chí có người còn tiếc ngẩn ngơ vì biết đến vị ngon ngọt của thịt “vua” đồi cát quá trễ. Để làm dông nướng, bạn chuẩn bị trước khoảng 10 con dông. Rồi bày sẵn nước mắm, muối, ớt, tiêu, chanh. Cách làm: Dông rửa sạch, lột da, moi bỏ hết ruột, rửa lại để ráo nước.
                                                                                             
Sau đó ướp dông với một chút nước mắm và ½ muỗng cà phê muối. Còn ớt bằm nhỏ, cho vô đảo đều, thời gian ướp khoảng 15 phút cho thấm gia vị. Xếp dông lên vỉ, cho lên bếp than nướng, vừa nướng vừa trở cho đều, thỉnh thoảng thoa thêm một ít dầu ăn, nhờ vậy dông mới có độ bóng và không bị khô. Khi nào chín vàng, dậy mùi thơm là được. Món này ăn nóng, chấm muối tiêu chanh ăn rất thơm, ngon    
                                                                                 

Thứ Tư, 30 tháng 11, 2011

Nuôi dông- đầu tư thấp, thu nhập cao

Con nhông cát hay còn gọi là con dông là động vật sống hoang dã, thích nghi với vùng đất cát hoang mạc. Tại Bình Thuận, con dông đào hang sống trong những đồi cát, động cát ven biển ở các huyện Bắc Bình, Tuy Phong, Hàm Thuận Bắc, Phan Thiết, tập trung nhiều nhất ở khu vực đồi cát ven biển Mũi Né, Thiện Nghiệp, Hòa Thắng, Hồng Phong…đang phát triển các khu du lịch biển của tỉnh.
Khi du lịch ở Bình Thuận phát triển, du khách về đây ngoài những món ăn hải sản làm từ tôm, cua, ghẹ, cá, nghêu, sò, ốc…, còn được thưởng thức món ăn đặc trưng của vùng gió, cát là thịt con dông. Thịt dông được chế biến nhiều món, từ dông nấu cháo đến dông nướng sả ớt, dông trộn lá me, dông xào lăn, nướng mọi …Từ năm 2005 trở về trước, con dông được chế biến dùng trong bữa cơm của những gia đình nông dân nghèo ở vùng nhiều nắng, thiếu mưa. Khi trở thành món ăn đặc sản vùng cát, con dông ở Bình Thuận dần dần chiếm được vị thế của mình, vào thời điểm này giá dông không dưới 350 ngàn đồng/kg. Chính vì thế, nguồn dông tự nhiên cũng dần dần bị cạn kiệt.
Việc đào, bẫy để bắt dông hiện nay chưa có ngành chức năng nào nghiêm cấm, nhưng nhu cầu của xã hội ngày một tăng và gắn với cuộc sống của không ít hộ quanh năm chờ những cơn mưa mới được trồng cây mè, cây đậu, cây dưa… ở vùng cát ven biển, nên nhiều người đã nghĩ đến việc nuôi dông. Họ nắm bắt được đặc tính của con dông là dễ nuôi, tự rời hang đi kiếm côn trùng, các loại phế phụ phẩm nông nghiệp, rau cỏ... để ăn. Vào mùa mưa khoảng tháng 5, tháng 6 thì dông đẻ, thời gian sinh trưởng nhanh, khoảng 7-8 tháng tuổi thì dông đạt trọng lượng 0,3 - 0,5 kg/con và có thể xuất bán. Nhưng nuôi dông phải rào chắn xung quanh và đất không ứ đọng nước, độ ẩm thích hợp để dông sống thích nghi và không bị thất thoát. Anh Đặng Anh Việt, hộ nuôi dông ở Hồng Liêm (Hàm Thuận Bắc) cho biết: anh thả nuôi khoảng 100 kg dông giống trong phạm vi khoảng 1.000 mét vuông đất trong vườn, sau hơn 7 tháng nuôi dông đạt trọng lượng 300 – 400 gram/con, bán với giá 350 ngàn đồng/kg, trừ các khoản chi phí anh còn lãi gần 40 triệu đồng. Với anh, những vùng khác cũng có thể nuôi được dông, nhưng phải rào chắn và đổ cát để dông đào hang tạo môi trường sống thích hợp. Chi phí ban đầu tuy có cao hơn nuôi ở vùng đất cát tự nhiên, nhưng chỉ sau một năm có thể thu hồi vốn và có lãi chút đỉnh, những năm sau thu nhập cao hơn.
Từ một vài hộ tận dụng đất vườn đầu tư rào chắn, khoanh nuôi thử nghiệm vài trăm mét vuông, đến nay diện tích nuôi dông ở Bình Thuận đã được mở ra hàng chục ha, tập trung nhiều nhất tại các xã Hòa Thắng, xã Hồng Phong… ở huyện Bắc Bình là vùng đất cát khô hạn, ít mưa, nhiều nắng, chỉ có gió và cát, rất phù hợp với con dông sinh trưởng. Có thể nói con dông là đặc sản của vùng gió cát, mang lại hiệu quả kinh tế cao. Do đó, thời gian gần đây, nghề nuôi dông đang phát triển mạnh ở những vùng đất cát ven biển như ở xã Tiến Thành (TP Phan Thiết), nhiều hộ nông dân đang đổ xô nuôi dông.Nuôi dông đầu tư thấp, dễ nuôi, dễ bán, thu nhập cao; thịt dông chế biến được nhiều món ăn ngon, khoái khẩu, góp phần làm phong phú thực đơn của các quán ăn, nhà hàng phục vụ khách du lịch. Nuôi dông hiện nay là một nghề mới ở Bình Thuận, nhưng người dân vẫn chỉ tự học nhau để làm. Người nông dân ở vùng gió cát Bình Thuận đang rất cần ngành chức năng hướng dẫn kỹ thuật, giúp họ thoát được nghèo và vươn lên làm giàu từ con dông, từng bước đưa nghề nuôi dông phát triển nhanh, bền vững trong thời gian tới./.

Con nhông đất quê ngoại


Quê ngoại tôi nằm trên một doi cát ven sông Trường Giang. Người dân quê ngoại tôi bao đời nay sống chung với cát. Mở mắt ra đã thấy doi cát dài rộng hút tầm mắt, những khi gió lớn, bão bùng cát bay tứ bề, bay cả vào trong nhà... Mẹ tôi, các cậu các dì đã lớn lên từ vùng quê cát này, bàn chân trần tuổi thơ bỏng rát vì cát. Và cũng chính từ vùng cát này, thiên nhiên đã ưu ái ban tặng cho quê ngoại tôi một thứ đặc sản mà không phải nơi nào cũng có, đó là con nhông đất.



Nhông đất là loài bò sát hoang dã, di chuyển bằng bốn chân và đào hang sâu dưới lòng đất để trú ẩn và sinh sản. Đất quê ngoại tôi vừa mềm, vừa xốp lại gần sông nên đất luôn ẩm ướt, bởi vậy đây là một môi trường khá lý tưởng để loài nhông đất làm hang sinh sống. Nhông mái (thường được gọi là nhông cái) có màu nâu đen của đất, trên da có một ít đốm hoa văn, còn nhông đực (được gọi là nhông que hay nhông thềm) thì sặc sỡ hơn với những đốm hoa văn xanh đỏ khắp thân. Hằng năm, cứ vào độ tháng 5 âm lịch thì nhông mái bắt đầu đẻ trứng. Một con nhông mái có thể đẻ từ 2 đến 8 trứng. Nhông là loại bò sát không kén ăn, thức ăn của chúng là những loại thực vật thân mềm và những loài côn trùng nhỏ từ cỏ non, chồi cây mới nhú, các loại hoa dại đến dế, cào cào, châu chấu... Đặc biệt, nhông là loài có khả năng tự tồn tại rất cao, gặp những lúc thời tiết không thuận lợi, thiếu thức ăn hoặc bị đe dọa, con nhông có thể ở lì dưới hang hằng tuần, không cần thức ăn chỉ tự cắn đuôi mà sống.

Để bắt được nhông đất, người dân quê ngoại tôi đã sáng tạo ra một kiểu bẫy rất đơn giản nhưng đem lại hiệu quả rất cao, đặt đâu “dính” đấy. Bẫy được làm từ những chiếc ống tre rỗng hai đầu, mỗi ống tre người ta cột thêm vào một thanh tre cật nhỏ có một sợi dây được thắt lại thành thòng lọng bỏ vào ống tre. Khi phát hiện ra hang nhông, chỉ cần kéo thanh tre, gài chốt đặt ngay miệng hang là xong. Con nhông từ dưới hang chui lên bắt buộc phải rúc qua ống tre, khi đầu nó vừa chạm vào chốt thì lập tức thanh tre sẽ bung lên và sợi dây thòng lọng sẽ siết lại. Thế là một chú nhông đã dính bẫy. Loại bẫy này đơn giản, dễ làm, vật liệu là những cây tre có sẵn trong vườn nhà nên mỗi lần người dân quê ngoại tôi đi bắt nhông họ đem theo cả vài chục cái và tất nhiên khi đi gom bẫy họ đã có hòm hòm vài chục con nhông đem về tha hồ mà trổ tài nấu nướng làm mồi nhậu. Ngoài cách đặt bẫy này, người dân quê ngoại tôi dựa vào kinh nghiệm của mình và thói quen của loài nhông đất mà có cách bắt nhông độc đáo hơn, đó là dò nhông và cào nhông. Khi phát hiện hang nhông bị đùn lại tức là con nhông đã tự lấp miệng hang lại để ngụy trang và đang ở phía dưới hang. Người ta chỉ cần dùng ngón tay hoặc một cái que nhỏ cào nhẹ nơi miệng hang, hoặc dùng que chọc từ từ nhịp nhàng xuống hang để dụ nó lên. Con nhông thấy động sẽ lập tức bò lên miệng hang và bị bắt sống ngay. Đôi khi người ta còn dùng cuốc đào sâu vào hang, chỉ cần hai ba nhát cuốc là đã có thể tóm được con nhông ngay.

Thịt nhông từa tựa như thịt gà nên dễ dàng chế biến thành những món ăn ngon không kém gì thịt gà. Con nhông bắt về được chặt đầu, chặt chân rồi lột da, mổ bụng bỏ hết bộ lòng. Người dân quê ngoại tôi ưa chuộng nhất là món nhông bằm nhuyễn cả xương xào mặn với sả ớt. Món này ăn với cơm hoặc làm mồi cho mấy bác nông dân "giải mỏi" sau những giờ đồng áng thì hết chỗ chê. Thịt nhông có thể đem băm nhỏ để làm chả, món này ngon hơn hẳn chả cá thu, cá đối. Hấp dẫn nhất là món nhông nướng xé nhỏ ăn với muối tiêu chanh ớt. Nướng nhông phải để nguyên con, vừa nướng vừa phết thêm một ít mỡ heo để thịt nhông vàng và béo hơn cho đến khi cả thân con nhông vàng ươm, thơm phức thì đem xé nhỏ. Để tăng thêm mùi vị, thì món nhông nướng phải ăn kèm với khế, chuối chát và rau ngổ điếc mới đúng điệu...

Bây giờ, nhà hàng quán nhậu ngày càng mọc lên nhiều và thịt nhông đã trở thành món đặc sản, do vậy nhông bán rất được giá. Vào mùa nhông, người ta đua nhau đi lùng, săn bắt nhông, lớn nhỏ gì đều bắt hết để bán cho các nhà hàng, quán nhậu. Con nhông cũng không còn được nhiều, và khó bắt hơn trước. Bởi vậy trong những bữa cơm hằng ngày, những món ăn chế biến từ thịt nhông chỉ còn trong nỗi nhớ thường nhật của những người dân quê ngoại tôi mà thôi.

Kỹ thuật nuôi kỳ nhông - kì nhông - dông - giông



Làm chuồng, hố nuôiKỳ nhông phải nuôi ở nơi khô ráo, có cát. Kỳ nhông hợp với khí hậu vùng ven biển miền trung nắng gió, càng khắc nghiệt càng tốt !
Cũng có thể thực hiện xây dựng trang trại tại các tỉnh phía Nam, có phủ một lớp cát trắng Miền Trung lên là được.

Hố nuôi kỳ nhông đủ rộng, có hào sâu tráng xi măng để khi kỳ nhông xuống không lên được hoặc được bao tường xung quanh cao 1,2m, bên trên có viền trát hồ xi măng láng bóng rộng khoảng 30cm để kỳ nhông không thoát được ra ngoài. Nền hố tôn cao 30-50cm so với mặt đất xung quanh, xếp gạch xỉ cách nhau 3- 5cm, đổ một lớp cát dày 0,6- 0, 7m để thoát nước và cho kỳ nhông làm tổ. Trồng cây hay làm chòi tạo bóng mát cho kỳ nhông trú nắng nhưng phải cách tường bao trên 1, 5m để kỳ nhông không nhảy ra ngoài.
Nguồn giống
Có hai nguồn cung cấp giống: Bắt trong tự nhiên, loại này thường không đồng cỡ, có con lớn, con bé khó nuôi. Loại nhân giống nhân tạo trong hố nuôi, loại này đồng cỡ, chăm sóc nuôi dưỡng dễ hơn. Nguồn giống kỳ nhông hiện rất hiếm, cung chưa đủ cầu. Chọn những con kỳ nhông khoẻ mạnh, không bị thương tật, dị hình để nuôi.
Chăm sóc nuôi dưỡng
Chăm sóc kỳ nhông không phức tạp, quan trọng là bảo vệ. Thức ăn nuôi kỳ nhông đa dạng, chủ yếu là thức ăn thực vật: lá, hoa, nụ, quả, chồi cây, cành non . . . Ngoài ra, chúng còn ăn côn trùng (bướm, sâu non, giun đất...), trứng của loài bọ cánh cứng.
Kỳ nhông sau khi nuôi được 8-10 tháng thì trưởng thành, mỗi con nặng 80-120g; kỳ nhông cái trưởng thành đẻ trứng 3-8 quả trong hang tự nhiên hay nhân tạo vào mùa nóng và khô. Đến mùa mưa, độ ẩm không khí cao, trứng nở thành nhông con.

Dông cát danh bất hư truyền

Dông cát hay còn gọi là kỳ nhông, là loài bò sát thường sống ở những đồi cát ven biển, có hình dáng khá giống con tắc kè. Thịt dông còn ngon hơn cả thịt gà, thịt ếch...


Dông cát được coi là ông “vua“ của những đồi cát
Dông cát được coi là ông “vua“ của những đồi cát
Nếu có dịp đi du lịch ở Ninh Chữ-Ninh Thuận, vào bất kỳ chợ lớn nhỏ nào bạn cũng thấy bày bán những lồng sắt đầy dông.
Ông “vua” đồi cát
Từ lâu, dông được coi là đặc sản xứ xương rồng. Người ta bảo dông là những ông “vua” của những đồi cát.
Loài dông thường khoái ăn cà chua, rau muống, dưa hồng... Riêng con dông Ninh Thuận có 4 loại: dông rằn xám trắng, dông bột, dông đen, dông lửa.
Chúng chạy nhanh, “ngụp lặn” như... sao xẹt trên những suối cát mịn màng. Thế nên thịt dông dai, săn chắc và thơm hơn cả thịt ếch, lại còn bổ dưỡng.
Cách đây gần chục năm, khi "vua" đồi cát được giá, người ta đổ xô đi xới cát bắt dông để “đổi đời”. Song, khi nguồn dông đã không còn phong phú như trước do săn bắt quá độ, khá nhiều hộ dân đã nghĩ ra cách nuôi dông tại gia để phục vụ nhu cầu của thực khách địa phương và nhiều vùng khác trên cả nước.
Nhiều năm qua, Ninh Thuận cũng là nguồn cung cấp dông rất lớn cho các tỉnh, thành khác ở khu vực phía Nam.
Khoái khẩu dông nướng
Có thể chế biến được rất nhiều món ngon từ con dông như:  dông xào sả ớt, rô-ti, chiên giòn, gỏi dông…nhưng ấn tượng nhất vẫn là dông nướng và chả dông. Cả hai đều thuộc hàng đệ nhất khoái trong các món từ dông.
Món dông nướng thoạt nhìn thấy hơi “ớn lạnh” vì vẻ bề ngoài sần sùi, song khi đã ăn rồi bạn không muốn gác đũa và thậm chí có người còn tiếc ngẩn ngơ vì biết đến vị ngon ngọt của thịt “vua” đồi cát quá trễ. Để làm dông nướng, bạn chuẩn bị trước khoảng 10 con dông. Rồi bày sẵn nước mắm, muối, ớt, tiêu, chanh. Cách làm: Dông rửa sạch, lột da, moi bỏ hết ruột, rửa lại để ráo nước.
Sau đó ướp dông với một chút nước mắm và ½ muỗng cà phê muối. Còn ớt bằm nhỏ, cho vô đảo đều, thời gian ướp khoảng 15 phút cho thấm gia vị. Xếp dông lên vỉ, cho lên bếp than nướng, vừa nướng vừa trở cho đều, thỉnh thoảng thoa thêm một ít dầu ăn, nhờ vậy dông mới có độ bóng và không bị khô. Khi nào chín vàng, dậy mùi thơm là được. Món này ăn nóng, chấm muối tiêu chanh ăn rất thơm, ngon.
Độc đáo chả dông
Với 5 con dông sống, bạn có thể chế biến món này cho 5 người lai rai ngon lành. 100g giò sống, lá xào dông, hành tím, tỏi, sả, ớt, nước mắm, bột ngọt, tiêu và dầu ăn.
Đem dông lột da, rửa sạch, bằm nhỏ rồi ướp với nước mắm, hành tím, tỏi, sả, tiêu, bột ngọt, lá xào dông. Thời gian ướp 5 phút, cho giò sống với thịt dông vào xay chung thật nhuyễn. Viên thành từng viên. Bắc chảo lên bếp nóng, cho dầu vào đun sôi, cho từng viên lên chảo dầu chiên chín vàng là được. Món này ăn kèm với cơm rất ngon.

Giải pháp nào phát triển nghề nuôi dông thương phẩm ?

Giải pháp nào phát triển nghề nuôi dông thương phẩm ? Ước tính toàn tỉnh hiện có từ 500- 600 hộ nuôi dông, với diện tích chuồng nuôi khoảng 50 ha. Nhờ vậy, nhiều hộ nông dân đã thoát nghèo và khấm khá lên nhờ mô hình kinh tế này. Tuy nhiên, để nghề nuôi dông thương phẩm có thể phát triển tốt, chắc chắn vẫn còn nhiều việc phải làm.

 Tiềm năng

Con dông là loại động vật hoang dã, sống chủ yếu ở những vùng đất cát ven biển từ Thanh Hóa đến tận Kiên Giang. Tuy nhiên, Bình Thuận vẫn là vùng đất phát triển nuôi dông mạnh nhất trong cả nước, đặc biệt là vùng khu Lê. Hiện tại, sức hấp dẫn những món ăn được chế biến từ con dông, khiến dông được “lên đời” thành món đặc sản khoái khẩu của nhiều người, dù giá cao (khoảng từ 300-400 ngàn đồng/kg). Trước nhu cầu tiêu thụ thịt dông tăng nhanh, mấy năm nay người dân trong tỉnh đã bắt đầu săn bắt con giống về nuôi bán. Hơn nữa, với lợi thế có bờ biển dài 192 km, diện tích đất cát là 117.468 ha, chiếm 15% diện tích tự nhiên, Bình Thuận sẽ là vùng đất đầy tiềm năng để phát triển nghề nuôi dông thương phẩm, nếu biết khai thác và có các giải pháp hữu hiệu để phát triển. Tuy vậy, vấn đề đặt ra ở đây là làm thế nào để phát triển và nhân rộng nghề nuôi dông thương phẩm với quy mô lớn trên địa bàn tỉnh? Để làm được điều đó, mấy năm qua Trung tâm Phát triển kinh tế- xã hội tỉnh (SEDEC) đã hợp tác với các xã Hòa Thắng, Hồng Phong nói riêng và huyện Bắc Bình nói chung (địa phương có diện tích nuôi dông lớn nhất tỉnh), thực hiện một số hoạt động thử nghiệm, tìm hiểu con dông trong quá trình nuôi thương phẩm. Bởi lâu nay, việc nuôi dông chỉ mới dựa vào kinh nghiệm thực tế của nông dân, ngoài ra vẫn chưa có các nghiên cứu để cung cấp có cơ sở khoa học và thực tiễn để giúp bà con phát triển mạnh mẽ nghề nuôi mới này.


 Tìm giải pháp phát triển nghề nuôi dông

Theo kinh nghiệm của người dân khu Lê, con dông sống ở vùng này có những ưu thế vượt trội so với con dông các vùng khác vì nó phát triển nhanh, trọng lượng cơ thể lớn, thịt ngon và có hiệu quả kinh tế hơn loại dông hương. Dông là loài ăn tạp, thức ăn gồm nhiều loài thực vật và côn trùng nhỏ, do đó khá dễ nuôi. Trong quá trình thực hiện một số mô hình nuôi thử nghiệm và kinh nghiệm thực tế nuôi dông thương phẩm, ông Phạm Khắc Thọ - Giám đốc Trung tâm SEDEC cho hay: Khi xây dựng chuồng nuôi, bà con phải chọn vùng đất cát thông thoáng, khả năng thoát nước tốt. Nếu xây chuồng trên đất trống thì phải trồng cây che phủ; nếu diện tích chuồng nhỏ, có thể tạo mặt bằng thành luống hoặc gò đồi nhỏ để tăng diện tích mặt bằng cho dông đào hang và sinh hoạt. Đặc biệt, dông có tập tính con lớn ăn thịt con bé, nên cần chú trọng quản lý dông con bằng cách tách bầy, đưa vào một chuồng nhỏ để chăm sóc riêng. Dông con nuôi khoảng 4-5 tháng, có thể chọn đưa vào chuồng nuôi thương phẩm…

Để phát triển hơn nữa nghề nuôi dông thương phẩm trong tỉnh, ông Thọ nhấn mạnh: “Phải xác định đây là một nghề mới trong cơ cấu chăn nuôi ở địa phương, do đó cần hình thành các chính sách phát triển tương xứng. Bên cạnh đó, địa phương nên chủ động hợp tác với các nhà khoa học, viện, trường… liên quan, để xây dựng và thực hiện đề tài cho dông sinh sản nhân tạo, sản xuất con giống cung cấp cho người chăn nuôi, nhằm tăng năng lực cung ứng giống có chất lượng và hạn chế khai thác dông con trong tự nhiên. Còn theo các hộ nuôi dông như ông Lê Thanh Chung, Trần Văn Nhân… tại xã Hòa Thắng (Bắc Bình), hiện nay bà con chủ yếu nuôi dông tự phát, chưa có kinh nghiệm trong phòng và trị bệnh về con dông. Do đó, các cơ quan chức năng cần nghiên cứu, phổ biến cho bà con phương pháp nuôi và cách phòng trị bệnh… để phát triển nuôi dông hiệu quả hơn. Đồng thời, các phía liên quan phải hợp sức để xây dựng thương hiệu con dông khu Lê nói riêng và dông Bình Thuận nói chung để đẩy mạnh thị trường tiêu thụ.

Dông xào sả ớt, món ngon vùng đồi cát





 
 
Con dông - một trong những đặc sản của xứ sở xương rồng-thường sống ở những động cát của vùng đồi cát ở 2 tỉnh Ninh Thuận - Bình Thuận.

Dông có thể chế biến thành nhiều món: gỏi, nướng mọi, nướng sả ớt, rô ti, hấp, chả dông, cháo dông… Tuy nhiên, một trong những món dông khiến cho du khách gần xa không thể nào bỏ qua khi về Phan Rang, quê hương của con dông đồi cát: Dông xào sả ớt.

Thoạt nhìn, con dông gần giống như tắc kè. Tuy nhiên da của con dông không sần sùi như da tắc kè mà trơn láng hơn. Dông đực thường to con hơn dông cái. Thịt dông trắng , săn và ngọt. Thịt của con dông nhiều nhất và ngon nhất là ở phần đuôi. Mua dông về, người đầu bếp thường để nguyên con, dội nước sôi rồi lột da, bỏ ruột, bỏ đầu, dùng dao bằm nhuyễn, ướp với sả xay cùng ít nước mắm ngon, ớt xắt nhỏ, gia vị để chừng 10 phút cho thấm đều. Xong rồi trút tất cả vào chảo dầu đang sôi, đảo đều chừng 10 phút để thịt chín là có thể xúc ra dĩa, rắc đậu phộng rang vàng lên trên cùng với một ít rau húng. Cuối cùng, để thêm phần bắt mắt, ngừơi ta điểm xuyết thêm vài lát ớt khoanh chín đỏ lên trên.
Món dông xào sã ớt phải ăn nóng mới ngon và dùng bánh tráng nướng để ăn kèm. Món nước chấm được dùng để tạo thêm hương vị thơm ngon của món dông xào sả ớt là nước tương. Bởi chỉ có nước tương mới tạo được vị đậm đà cho món món dông xào sã ớt này.
Miếng bánh tráng dòn tan cộng với vị ngọt, bùi của miếng thịt dông xứ nóng khiến cho bạn chỉ nếm một lần thôi nhưng chắc chắn sẽ không bao giờ quên được. Ngày xưa con dông được người dân xứ nóng đưa lên hàng đặc sản, chỉ có khi khách quý đến nhà mới ra động cát tìm bắt vài con dông về để làm món dông xào sả ớt đãi khách. Con dông chuyên sống trong hang cát, nó chỉ ra khỏi hang từ sáng sớm và tìm ăn những chồi non của cỏ, vì thế mà con dông đã từng được người dân xứ nóng xem như một vị thuốc bổ. Nếu may mắn mà bắt được con dông cái đang có chửa thì quả là tuyệt hảo, vì theo những người sành ăn thì món trứng dông mới là ngon nhất, trứng dông rất béo nhưng không ngậy, khiến cho người ăn không biết ngán, trứng dông đáng được liệt vào hạng sơn hào, hải vị.
Ngày nay, con dông trong tự nhiên đã không còn nhiều như trước. Tuy nhiên những người nông dân xứ nóng vốn nhanh chóng thích nghi với nền kinh tế thị trường đã tìm ra cách nuôi dưỡng, thuần hóa buộc con dông phải sinh sản trong môi trường nuôi nhốt. Nhờ thế mà ngày nay khi về nghỉ ngơi, tắm biển ở Phan Rang, đến bất cứ nhà hàng nào, bạn cũng có thể gọi cho mình món dông xào sã ớt.  Và khi đã ngồi trước một dĩa dông xào sả ớt đang tỏa mùi thơm, thì chắc chắc rằng bạn không thể nào đủ can đảm từ chối dù bạn chưa bao giờ biết thế nào là con dông.

Thứ Ba, 29 tháng 11, 2011

Món dông nướng

Món dông đồi cát Phan Thiết

Món dông nướng hấp dẫn

Món ngon chế biến từ Dông

Từ lâu Phan Thiết, Bình Thuận đã nổi tiếng không chỉ bởi những bãi biển đẹp, những khu resort nghỉ dưỡng cao cấp mà nói đến nơi đây, khách du lịch còn nhắc đến hàng loạt món ăn nổi tiếng như: mực nướng, cá đục nướng, sò huyết, ốc luộc..., trong số đó du khách không thể nào bỏ qua món dông nướng.
Đây là đặc sản của vùng đồi cát.Gần đây cùng với xu hướng thưởng thức các món ăn ngon, lạ thì ngành nuôi dế, nuôi bọ cạp, nuôi dông ngày càng phát triển. Thuận lợi về địa hình, với những đồi cát chạy dọc ven biển tạo điều kiện cho việc nuôi dông cát. Bắt đầu phát triển ở Bình Thuận trong chục năm trở lại đây, ngành nuôi dông cát ngày nay phát triển với quy mô nuôi công nghiệp.

Dông thuộc họ bò sát, có kích thước lớn hơn thằn lằn, chiều dài từ 20-30cm. Từ một loài vật hoang dã được con người đem về nuôi, con dông đã sớm khẳng định được giá trị. Giá dông hiện nay trên thị trường là từ 350.000-400.000 đồng/kg mà vẫn không đủ hàng để cung ứng.

Để chế biến món dông nướng, đầu tiên chúng ta phải chọn những con mập, có kích thước của dông trưởng thành, vì nếu lựa những con nhỏ quá thì thịt dông sẽ rất bở, không ngon. Sau khi lột da dông, vệ sinh sạch sẽ rồi tẩm ướp gia vị.

Chúng ta ướp vào thịt dông hành băm nhuyễn, hạt nêm, tiêu và nước nắm. Nước nắm là thành phần không thể thiếu của món ăn, phải chọn loại nước mắm ngon của địa phương. Chờ khoảng 30 phút cho thịt thấm gia vị. Sau khi nhóm bếp, cho dông lên vỉ nướng. Theo kinh nghiệm thì nên nướng bằng bếp than vì như thế mới toát lên hết hương vị của món ăn.

Trong giai đoạn nướng chúng ta chú ý phải trở đều, không để thịt dông bị cháy khét. Sau khi dông chín vàng hai mặt, chúng ta bày ra đĩa, trang trí cho đẹp mắt. Dông nướng có thể ăn với bánh tráng nướng hoặc ăn với rau sống, bún và bánh tráng cuốn. Cho dông vào bánh tráng, cho thêm tí bún, rau sống cuốn lại rồi chấm nước mắm me thì không gì bằng.

Đối với những người con xa quê, dông nướng là món ăn không thể quên trong ký ức. Dù cho ngày nay người ta có thể tìm thấy dông nướng ở những quán ăn lớn, những quán nhậu khắp mọi nơi, nhưng vẫn không đâu bằng phố biển. Hương vị và cách thức chế biến đã làm nên sự khác biệt giữa món dông nướng Phan Thiết với những nơi khác.


Món dông hấp dẫn


Nói về đặc sản của Bình Thuận không thể bỏ qua món dông. Đây là một loài bò sát sống ở những đụn cát đầy nắng nóng. Thịt dông thơm, mềm và có vị ngon ngọt. Người ta có thể ướp dông với sả và gia vị rồi đem nướng hoặc có thể làm món dông bằm xúc bánh tráng hay gỏi dông, lẩu dông lá me thật độc đáo và nhớ mãi.  
   Thịt dông thường được các đầu bếp ở BìnhThuận chế biến thịt dông thành 7 món rất sành điệu: gỏi dông, chả dông, dông nướng, dông rôti, dông hấp, dông nấu dưa hồng và cháo dông.

   Làm gỏi dông rất công phu, phải có "bí quyết" nhà nghề mới chế biến được. Làm sạch ruột, lột da, đưa vào lò nướng, khi thịt dông vàng mới lấy ra. Sau đó băm nhuyễn, xào chín và trộn với  trái cóc hoặc xoài cắt chỉ nhỏ, rau thơm, đậu phộng rang giòn và đặc biệt phải có "lá xoài dông", một thứ lá cây mọc trên các vách đá vùng khô hạn, có vị chát. Gỏi dông ăn chung với bánh tráng dày, nhiều mè, xúc mãi không chán.
 
   Hấp dẫn hơn là món dông nướng. Có hai cách để làm dông nướng, tùy theo yêu cầu của khách hàng. Dông nướng để nguyên da, và dông nướng ướp muối ớt sau khi đã lột da. Ngon nhất trong con dông nướng là mật và trứng dông. Mật dông có vị béo nhân nhẩn và để lại cái hậu thật ngọt. Trứng dông rất béo, bùi bùi dùng không ngán, được xem là một loại sơn hào hải vị.

   Dông nướng chấm muối ớt chanh, kèm với lá xoài dông vừa cay lại vừa chua, có hương vị đặc trưng. Xương dông rất mềm, nhai trong miệng lụp bụp, nhâm nhi với ly rượu thuốc thật thú vị.

   Thưởng thức dông 7 món phải tuân theo thứ tự, trước hết là gỏi, hấp, rôti... và cháo dông là món sau cùng vừa ấm bụng mà lại cảm nhận được hương vị của từng món ăn.

Món dông nướng của nhà hàng Sóng Biển


_MG_1342
(Ảnh: Dông nướng Sóng Biển)
Bên cạnh thực đơn hải sản, nhà hàng Sóng Biển (đường Lê Lợi, thành phố Phan Thiết) còn hấp dẫn thực khách xa gần bởi các món ăn chế biến từ con dông, trong đó thơm ngon và đậm đà hương vị miền biển nhất là món Dông nướng.
Con dông là một động vật bò sát sống hoang dã, thích nghi với vùng đất cát hoang mạc. Tại Bình Thuận, con dông đào hang sống trong những đồi cát, động cát ven biển ở các huyện Bắc Bình, Tuy Phong, Hàm Thuận Bắc, Phan Thiết. Từ các triền cát nóng bỏng ánh nắng, dông được cung cấp cho nhà hàng Sóng Biển để các đầu bếp chế biến thành món Dông nướng hấp dẫn.
Theo đầu bếp Trương Thị Ngọc Mai, để món dông nướng trọn vẹn vị thơm ngọt của thứ thịt trắng phau của loài bò sát này, trước khi ướp gia vị dông phải được nhúng qua nước sôi để làm mềm các thớ thịt cũng như dễ lột lớp da ‘rằn ri” bên ngoài. Sau đó, dông được cắt bỏ phần đuôi và lấy sạch các phần bên trong  rồi mới đem ướp gia vị trong vòng 30 phút cho thấm đều.
_MG_1341
(Ảnh: Đầu bếp Mai hướng dẫn nướng dông)
Gia vị ướp cho món dông nướng gồm các nguyên liệu như ớt xay nhuyễn, ớt bột, bột nêm và ít đường. Thành phần gia vị này ngoài tạo nên sự ngon miệng cho món ăn còn làm cho thịt dông nướng có màu đỏ tươi rất bắt mắt. Dông được nướng trên các bếp lửa than vói yêu cầu ngọn lửa vừa phải để thịt dông được chín đều, cho màu nâu đỏ, thơm lừng. Thưởng thức món dông nướng tại nhà hàng Sóng Biển kèm với rau thơm, bún, cuốn bánh tráng mè và chấm mắm me. Vị thơm ngọt rất lạ của dông, vị cay nồng của ớt và rau thơm, vị béo của bánh tránh mè hòa quyện cùng vị chua ngọt của mắm me tạo nên một món ăn ngon, bổ dưỡng và đậm đà hương vị biển. Điểm độc đáo của món dông nướng ở Sóng Biển là “khuyến khích” thực khách dùng tay khi thưởng thức để vừa cảm nhận đầy đủ sự mộc mạc của một món ăn dân dã, vừa tự mình trải nghiệm và khám phá nhiều điều lý thú của thành phố biển xinh đẹp Phan Thiết.
Hãy đến thành phố biển và một lần trải nghiệm và tận hưởng món dông nướng cùng người thân và bạn bè tại Nhà hàng Sóng Biển. Với không gian biển đẹp, rộng rãi và kề bên khu du lịch nổi tiếng Đồi Dương – Thương Chánh; với đội ngũ nhân viên phục vụ chuyên nghiệp và chu đáo chắc chắn Nhà hàng Sóng Biển sẽ làm hài lòng mọi thực khách.
Nhà hàng Sóng Biển, số 162 đường Lê Lợi, phường Hưng Long, Tp.Phan Thiết (điện thoại: 0623.829.358) trân trọng kính mới Quý khách!

Thứ Hai, 7 tháng 11, 2011

Nuôi dông để đổi đời


Nhiều năm trước, con dông ở vùng "sa mạc" Hòa Thắng (huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận) chỉ là loài vô danh tiểu tốt. Đến khi du lịch phát triển, dông lên đời vì trở thành món đặc sản hấp dẫn khách phương xa.
Bắt dông bán được tiền nên phong trào đào đất khui hầm săn dông phát triển rầm rộ. Đến khi con dông vắng bóng trên các động cát, quay lại với những cánh đồng cằn cỗi vì nắng hạn, người dân Hòa Thắng quay quắt với bữa đói bữa no. "Khoảng 2 năm trở lại đây, điệp khúc đói nghèo ở Hòa Thắng đã sang trang trước sự phát triển của nghề nuôi dông. Nhiều người từ khó nghèo nay đã có của ăn của để cũng nhờ con dông xứ cát" - ông Trương Quang Thọ, Phó Chủ tịch xã Hòa Thắng, cho biết. 
Chúng tôi ghé nhà chị Võ Thị Mến, ngụ thôn Hồng Lâm, một trong những điển hình nuôi dông thành công ở xã Hòa Thắng. Chị Mến cho biết nhà chị có 2 sào ruộng nhưng vì đất đai bạc màu, nắng hạn triền miên, việc canh tác hoàn toàn phụ thuộc vào nước trời mỗi năm chỉ làm một vụ nên năng suất thấp kém, khi được giá thì mất mùa, lúc được mùa thì mất giá, nên dẫu cả gia đình làm việc cật lực nhưng nhiều năm vẫn không "cất đầu lên nổi".
Sau nhiều năm quanh quẩn với cuộc sống nghề nông nghèo khó không có lối ra, đầu năm 2009, thấy một số người dân trong xã nhờ nuôi dông mà phất lên trông thấy nên chị Mến bàn với chồng "bắt chước người ta". Sau khi khoe đợt thu hoạch dông vào trung tuần tháng 10 được gần 20 triệu đồng, chị Mến chia sẻ: "Vay mượn được gần 20 triệu đồng, tôi đầu tư xây dựng chuồng trại, mua dông giống thả nuôi. Hằng ngày ông xã tôi đi hái rau, bứt cỏ, đào trùn cho dông ăn. Nuôi được gần 2 năm thì những con dông bé tí tẹo nhỏ như con thằn lằn tăng trọng cỡ 3 con một ký (3 con/kg), lái thu vào một ký 280.000 đồng. Bán hết một mớ, tôi hiện còn 70kg dông thịt, tương đương 20 triệu đồng và còn nhân được khoảng 5kg dông giống, mỗi ký xuất cho người nuôi hiện cũng được xấp xỉ 500.000 đồng".

Nghề nuôi dông ở Bình Thuận đang mở ra cơ hội thoát nghèo.

Cùng niềm vui với chị Mến, chị Võ Thị Hòa ở thôn Hồng Lâm hân hoan tâm tình sau nhiều năm bí lối làm ăn, con dông là cứu tinh giúp gia đình chị và người dân ở xã tự tin mơ tới một ngày mai khá giàu. "Ông xã tôi là dân săn dông thứ thiệt ở vùng đất này" - chị Hòa bật mí: "Những khi trời nắng hạn không thể trồng trọt gì được, vậy là ổng cùng nhiều người khác nhóm lại đi đào dông bán cho các đoàn khách du lịch. Bắt riết rồi dông cũng sạch, khi ấy một người trong nhóm săn dông với ổng mới nghĩ chuyện nuôi dông và đã nhân giống thành công. Thấy nghề này có triển vọng nên vợ chồng tôi huy động vốn quyết sống chết với nghề".
Khoảng giữa năm 2009, thay vì làm đất rải hạt như người ta, vợ chồng chị Hòa mua tôn về quây chuồng rồi thả dông giống và thành công ngoài mong đợi. Tổng số vốn đầu tư lúc ban đầu là 46 triệu đồng, đến khoảng tháng 6/2010 vợ chồng chị xuất dông thịt được hơn 30 triệu đồng.
Hiện vợ chồng chị Hòa còn ngần ấy dông thịt, nếu nuôi thêm 1 tháng nữa thì khả năng sẽ thu về xấp xỉ 50 triệu đồng. Đó là chưa kể số dông con trị giá hơn chục triệu đồng. Chị Hòa khẳng định: "Con dông rất dễ nuôi và thu lợi cao. Nghề này hễ vào cuộc chỉ có thắng với thắng".
Theo thống kê của UBND xã Hòa Thắng, nghề nuôi dông ở địa phương rộ lên từ đầu năm 2008 đến nay. Toàn xã hiện có 120 hộ nuôi dông trên diện tích khoảng 20ha. Ông Nguyễn Thanh Lâm, cán bộ văn phòng xã, cho biết: "Dông là loài bò sát dễ nuôi, ít bệnh tật, ăn được nhiều loại thức ăn, từ rau, cỏ, củ quả các loại đến các loại côn trùng. Hiện nghề nuôi dông ở địa phương ngày một phát triển nhờ đầu ra của dông giống lẫn dông thịt ổn định. Không chỉ phục vụ thị trường tỉnh Bình Thuận, con dông còn được xuất đi các tỉnh lân cận, đặc biệt là thị trường TP Hồ Chí Minh"

Thứ Bảy, 5 tháng 11, 2011

Dông 3 món đặc sắc

GỎI DÔNG :
Làm gỏi dông rất công phu, phải có "bí quyết" nhà nghề mới chế biến được. Làm sạch ruột, lột da, đưa vào lò nướng, khi thịt dông vàng mới lấy ra. Sau đó băm nhuyễn, xào chín và trộn với trái cóc hoặc xoài cắt chỉ nhỏ, rau thơm, đậu phộng rang giòn và đặc biệt phải có "lá xoài dông", một thứ lá cây mọc trên các vách đá vùng khô hạn, có vị chát. Gỏi dông ăn chung với bánh tráng dày, nhiều mè, xúc mãi không chán.
 Khi làm món gỏi Dông, Dông được đem nhúng nước sôi rồi lột lớp da giấy bên ngoài (dân địa phương gọi là da đất), tiến hành rửa và "mổ bụng" (đặc biệt sau khi mổ không được rửa nước vì như vậy thịt Dông sẽ rất tanh). Sau đó Dông được đặt lên vỉ và nướng, lửa không được quá già vì như thế sẽ làm cháy Dông, khi ăn thịt Dông sẽ giảm vị ngọt. Trong quá trình nướng Dông mọi gia vị như lá me non, rau răm, tiá tô, húng thái nhỏ chuẩn bị là vừa. Nếu có lá cóc rừng thái nhỏ thì thật là đúng "hệ", nhưng lá cóc rừng vốn khó kiếm nên ít được phổ biến. Nước mắm, gừng, tỏi, ớt, đường được chế biến thật kẹo, cay ngọt phải đậm sẽ làm tăng thêm vị ngọt của thịt Dông. Dông nướng xong, thịt được xé nhỏ (giống xé phay thịt gà) trộn đều với gia vị và rưới thêm chút dấm, như vậy ta đã có món gỏi Dông. Gỏi Dông được cuốn với bánh tráng sống (nhúng nước để cho mềm) và chấm nước mắm thì thật là tuyệt hảo.

Nếu như món gỏi Dông mang dáng dấp bình dân thì Dông chiên lăn bột hay chả Dông lại mang dáng dấp cao lương mỹ vị mà ta thường gặp trong các nhà hàng hay các tiệm ăn sang trọng. Dĩ nhiên các món này gia vị đòi hỏi phải nhiều và đắt tiền như: bột mì, trứng gà (hay trứng vịt), mỡ (hoặc bơ), bột ngọt, ngũ vị hương hay các thứ màu mè khác. Nhưng đa số người dân địa phương vẫn yêu thích những món bình dân cực kỳ ngon lành do tự tay họ chế biến

2. LẨU DÔNG :
Làm thịt dông, rửa sạch, chặt thành từng miếng tùy theo ý thích, rồi ướp gia vị cho thấm mới nấu món ăn. Để thêm hương vị đậm đà có người lại đem thịt dông băm nhỏ cùng ớt, hành củ có lá và ướp đường, nước mắm, muối. Trộn chung với bột năng, thêm chút nước rồi giã nhuyễn. Sau đó, vò lại thành viên cỡ nào cũng được. Chiên sơ qua dầu hơi vàng. Lá me chua rửa sạch, lặt bỏ cọng, lấy lá non, vò giập giập. Cho vào nấu nước lẩu cùng các gia vị: hành, tỏi giã giập, ít muối tiêu, nêm tí bột ngọt nếm vừa miệng ăn. Ăn lẩu dông lá me cũng phải biết cách: cho bún vào tô, gắp thịt dông cho vào, múc nước lẩu chan đều, kèm ít cọng rau sống, ăn nóng rất ngon. Nếu chưa vừa miệng, bạn có thể thêm nước mắm ngon dầm ớt xiêm, cay cay hít hà mới đã. Nhưng vị ngọt lự chính là thứ nước lẩu còn sau cùng, chưa dùng hết xem như chưa biết món lẩu dông lá me
3.DÔNG NƯỚNG:
Hấp dẫn hơn là món dông nướng. Có hai cách để làm dông nướng, tùy theo yêu cầu của khách hàng. Dông nướng để nguyên da, và dông nướng ướp muối ớt sau khi đã lột da. Ngon nhất trong con dông nướng là mật và trứng dông. Mật dông có vị béo nhân nhẩn và để lại cái hậu thật ngọt. Trứng dông rất béo, bùi bùi dùng không ngán, được xem là một loại sơn hào hải vị.
Thịt dông thơm, mềm và có vị ngòn ngọt, gần giống như thịt gà nên còn được gọi là “gà đất”. Khi chế biến, người ta có thể ướp thịt dông với sả và gia vị rồi đem nướng, hoặc có thể làm món dông bằm xúc bánh tráng.

Nguyên vật liệu:

_ 1 con kỳ nhông rừng
_ 3 quả cà chua
_ 1 củ hành mọc vùng hoang mạc (trắng hoặc vàng)
_ 1/2 pounds nấm vùng hoang mạc
_ 1/2 thìa cafe xì dầu
_ muối
_ que nướng

Chú thích: có thể thay thế thịt kỳ nhông rừng bằng vật liệu khác
Hướng dẫn thực hiện:

Con kỳ nhông phải còn sống nguyên. Hãy hù doạ cho nó sợ hãi, điều này sẽ làm chất hoang dã thấm vào thịt nó, cho ta một hương vị rất đăc biệt. Sau đó tốt nhất nên dùng vật nặng gõ 1 phát ân huệ vào đầu nó để chuẩn bị bước vào khâu chế biến.

Lưu ý: Đừng giết con kỳ nhông bằng Plasma Gun. Kết quả sẽ không như ý muốn
_ luộc con kỳ nhông 3 phút, sau đó lột da, làm sạch bộ đồ lòng
_ ướp xì dầu trong vòng 5 phút
_ xâu thịt và cà chua đã cắt miếng vào que
_ nướng trên lò nướng cho đến khi vàng rụi, ta co thê thưởng thức
_ dành cho ghoul và mutant: sau khi nướng có thể hơ trên chất thải phóng xạ vài phút.
KỲ NHÔNG HẦM THUỐC BẮC
nhưng khúc thịt được chặt khoanh tẩm ướt gia vị 1 lát sau cho vào niêu  , hầm với nhục thung dung ,ba kích , kỷ tử, đương quy, đảng sâm ... lên màu hấp dẫn ngon hơn là cái chất rồng đất của nó
Độc đáo chả dông
Với 5 con dông sống, bạn có thể chế biến món này cho 5 người lai rai ngon lành. 100g giò sống, lá xào dông, hành tím, tỏi, sả, ớt, nước mắm, bột ngọt, tiêu và dầu ăn.
Đem dông lột da, rửa sạch, bằm nhỏ rồi ướp với nước mắm, hành tím, tỏi, sả, tiêu, bột ngọt, lá xào dông. Thời gian ướp 5 phút, cho giò sống với thịt dông vào xay chung thật nhuyễn. Viên thành từng viên. Bắc chảo lên bếp nóng, cho dầu vào đun sôi, cho từng viên lên chảo dầu chiên chín vàng là được. Món này ăn kèm với cơm rất ngon.

 

Thứ Tư, 2 tháng 11, 2011

Thịt dông 7 món


In Email
Ðặc sản của đồi cát là dông. Dông sống trong hang, sáng tinh mơ ra đồi cát tìm ăn chồi non và uống sương đêm, vì thế mà thịt thơm, săn và ngọt, được xem là một vị thuốc bổ. Thịt dông trắng như thịt gà, mà lại ngọt, bùi và mềm hơn. Xương rất mềm, gần như là sụn. Còn da thì dòn sừn sựt. Tuy nhiên khi chế biến người ta thường lột vứt bỏ vì trông không bắt mắt.
dong-2
Người Ninh Thuận chế biến 7 món thịt dông: Dông nướng, dông rô ti, dông hấp, chả dông, gỏi dông, cháo dông và dông nấu dưa hồng. Món nào cũng ngon. Tuy nhiên, quý bà quý cô có phần ngần ngại khi nhìn những con dông nướng, rô ti hay hấp còn nguyên cả đầu, bốn chân và cái đuôi dài dài. Nhưng đến món gỏi hay chả, khi dông được bằm nhuyễn thì dầu có nhát gan cũng chẳng mấy ai từ chối.

Thật vậy, như với món gỏi dông để nguyên xương được bằm nhỏ, xào chín và trộn với cóc hoặc xoài xắt chỉ, rau thơm, đậu phụng rang dòn, nước mắm pha và đặc biệt phải có lá xào dông, một thứ lá trông giống lá chùm ruột non, sống trên vách đá vùng khô hạn, mùi thơm thoảng vị chát. Gỏi dông ăn với bánh tráng nướng, thứ bánh tráng dày, nhiều mè, nướng vàng rụm, xúc mãi không chán.
dong-1
Nhưng theo dân sành điệu thì thức ngon nhất trong con dông là mật và trứng. Mật dông có vị béo nhân nhẫn và để lại cái hậu thật ngọt. Trứng dông rất béo, rất bùi mà không ngậy, được xem là một loại sơn hào hải vị. Chẳng thế mà chuyện ngày xưa kể rằng ở làng Mỹ Tường, trong lễ vật thách cưới phải có một thúng trứng dông, những cái trứng chỉ to bằng đầu ngón tay út! rất may tục lệ này đã bị bãi bỏ chứ nếu không thì hẳn trai Mỹ Tường ngày nay nhiều người phải chịu cảnh phòng không. Hầu hết các nhà hàng, quán đặc sản ở Phan Thiết đều có món dông.  Nhiều quán nhậu ở Sài Gòn cũng có những món ngon đặc sắc này.

Chủ Nhật, 30 tháng 10, 2011

Thịt dông, món ngon Ninh Thuận



Nuôi dông đã trở thành một hướng đi hiệu quả ở những huyện ven biển của tỉnh Ninh Thuận.
Thịt dông nướng, món ăn hấp dẫn với nhiều du khách.
Từ Tâm là tên một thôn thuộc xã Phước Hải (huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận). Nơi đây có dông (nhông) tập trung nhiều, là nơi cung cấp thịt dông cho các chợ, nhà hàng, quán nhậu trong tỉnh Ninh Thuận.
Vì dông là “họ hàng” gần gũi với kỳ nhông, tắc kè, rắn mối, nên những ai chưa từng biết đến con dông thoạt nhìn cũng có hơi… khó chịu. Tuy nhiên, đó chỉ là những cảm giác ban đầu, bạn sẽ quên ngay sau đó khi trước mặt là những dĩa nhông ram, nhông xào, gỏi nhông dậy mùi thơm phức; cắn vào một miếng thấy giòn tan và béo ngậy, như có sự phối hợp hoàn chỉnh giữa thịt ếch, chuột đồng và chim sẻ vậy.
Dông ở Ninh Thuận có 4 loại: dông lửa, dông rằn xám trắng, dông bột, dông đen. Chúng chỉ thích sống ở những động cát khô khát. Do chạy nhanh, “ngụp lặn” như... sao xẹt trên những suối cát mịn màng mà dông được phong cho biệt danh là ông “vua” của những đồi cát. Một điều lạ là cũng trên vùng cát nóng bỏng này, có một loài cây bụi lá nhỏ từa tựa như lá đinh lăng (cây gỏi cá), thơm mùi hăng hắc rất đặc trưng. Một dúm lá non thái nhỏ trộn chung với thịt dông, thêm ít gia vị, sẽ thành món gỏi ngon tuyệt. Dân địa phương gọi luôn cây này là cây lá dông, một cây một con, “hạp nhau” như lá lốt với thịt bò, thịt cầy với lá mơ.
Những vùng đồi cát có nhiều rau dại như sam, chành rành, muống biển… là nơi dông rất thích ở và đào hang. Từ tháng 3 đến tháng 6 âm lịch, dông sinh trưởng mạnh nhất. Con dông chỉ ra khỏi hang kiếm ăn vào mùa nắng. Mùa mưa chúng ẩn mình trong hang sâu, có khi đến 2-3 mét. Dông nhịn đói rất tốt và khi đói quá chúng…tự ăn đuôi của mình để rồi sau đó lại mọc ra như cũ. Thường thì người ta bắt dông bằng cách làm thòng lọng bằng dây cước cắm ngay miệng hang, muốn chắc ăn hơn thì bắt bằng cách đào hang. Song thường phải có hai người- một người đào và một người đứng canh chừng, bởi đã có nhiều trường hợp người đào dông bị chết do cát sụt lấp không moi lên kịp. Những ngày nắng nóng, một người có thể bắt được 3 - 5kg dông, ngày trời mát, dông ít lên, bắt được ít hơn.
Do bị con người săn bắt, từ dông mẹ đến dông con, kể cả mùa dông sinh sản để cung cấp cho nhà hàng, quán nhậu nên nguồn dông tự nhiên ở đây hiện không còn bao nhiêu. Vài năm trở lại đây, nhiều hộ dân ở các huyện ven biển của Ninh Thuận đã bắt tay vào nuôi dông để phục vụ nhu cầu của thực khách địa phương và nhiều vùng khác trên cả nước. Nuôi dông đã trở thành một hướng đi hiệu quả đối với những vùng có động cát của tỉnh này. Riêng ở thôn Từ Tâm (xã Phước Hải, huyện Ninh Phước) có nhiều hộ nuôi dông quy mô lớn (từ vài ngàn đến vài chục ngàn con). Thức ăn khoái khẩu của dông là các loại rau, củ quả như cà chua, rau muống, dưa hồng... Chỉ cần khoảng 10.000 đồng rau quả là đủ cho 1.000 con ăn mỗi ngày. Ngoài ra, người nuôi còn cho dông ăn cám gạo, cám hỗn hợp và các loại đậu. Loài dông đẻ rất nhanh, từ khi mang trứng đến khi nở con chỉ khoảng 10 ngày. Dông đạt trọng lượng từ 6 - 12 con/kg thì xuất bán, với giá bình quân từ 280.000 – 300.000đ/kg. Đời sống của nhiều hộ nông dân ở Tứ Tâm đã khá giả nhờ nuôi dông.
Có dịp nào đến Ninh Thuận, ngồi trong nhà hàng, quán nhậu, bạn chớ quên thưởng thức một vài món thịt dông bản địa. Thịt dông làm được nhiều món: gỏi, xào, nướng, ram, băm nhuyễn cháy chả, nấm canh chua. Riêng tôi cứ nhớ món dông luộc nguyên con xé ra từng miếng, chấm vào dĩa muối ớt đỏ nồng, chiêu một hớp rượu, thật khoái khẩu làm sao !

Thứ Sáu, 28 tháng 10, 2011

Nuôi Dông - nghề hấp dẫn

Với ưu điểm dễ nuôi, vốn đầu tư không quá lớn, thời gian nuôi ngắn đặc biệt lãi cao nên trong thời gian gần đây, người dân huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận đã rộ lên phong trào nuôi dông.

Nghề nuôi hấp dẫn
Gia đình anh Trần Xuân Tuệ ở khu phố Xuân Hội, thị trấn Chợ Lầu, huyện Bắc Bình năm 2007 đầu tư 15 triệu đồng mua 5.000 con dông giống về thả tại khu vườn đất cát 1.000m2 ngay cạnh nhà. Để cho dông không thoát được ra ngoài, anh xây tường bao quanh khu vườn, cao 1,5m, móng sâu khoảng 60cm. Anh Tuệ cho biết: Do dông sống trong hang nên bắt buộc nuôi dông phải là các vườn đất cát để cho chúng đào hang. Thức ăn ưa thích của dông là các loại rau, củ quả như cà chua, rau muống, dưa hồng...
Chỉ cần khoảng 10.000 đồng mua rau quả, đồng thời tận dụng cơm thừa sau bữa ăn là đủ cho 5.000 con ăn mỗi ngày. Loài dông đẻ rất nhanh, từ khi mang trứng đến khi nở con chỉ khoảng 10 ngày. Dông lớn nhanh, từ khi mới đẻ đến khi xuất chuồng chỉ khoảng 7 - 8 tháng, đạt trọng lượng 3 - 4 con/kg đối với dông đực và 5 – 7 con/kg đối với dông cái. Giá dông thương phẩm, tùy từng thời điểm nhưng dao động từ 180.000 – 250.000 đồng/kg thậm chí có lúc lên tới 300.000 đồng/kg. Sau một năm nuôi dông, với lượng bán ra, trừ chi phí anh Tuệ còn lãi trên 30 triệu đồng, chưa kể trong vườn vẫn còn rất nhiều dông lớn nhỏ trị giá trên 30 triệu đồng nữa anh chưa thu hoạch.
Theo ông Ngự, chi phí về thức ăn cho dông rất thấp, người dân chủ yếu tận dụng các phụ phẩm nông nghiệp, đầu tư chuồng trại đơn giản, công chăm sóc ít, chi phí thuốc thú y phòng chống dịch bệnh hầu như không đáng kể, giá bán cao trong khi đó thị trường tiêu thụ rộng lớn như thành phố Hồ Chí Minh, Khánh Hòa, Lâm Đồng…; ngay tại địa phương nhu cầu cũng rất lớn. Từ các yếu tố thuận lợi này nên hiệu quả kinh tế nuôi dông rất hấp dẫn, bình quân thu lợi nhuận từ 20 – 30 triệu đồng/trại/1.000m2.
Ông Đinh Văn Ngự, Trưởng phòng NN - PTNT huyện Bắc Bình cho biết: Dông được coi là đặc sản của tỉnh Bình Thuận. Vì thịt dông quý và bổ nên có một thời gian, đào dông, bẫy dông được coi là nghề “hái ra tiền” của người dân nơi đây, chính vì vậy mà dông trong tự nhiên tại Bắc Bình có nguy cơ bị tuyệt chủng. Từ đó, nhiều nông dân trong vùng đã chú ý đến việc thu gom và nhân giống, để tổ chức nuôi dông nhân tạo, dần tạo ra nghề mới cho thu nhập khá ở vùng đất nổi tiếng nghèo khó này.
Nghề nuôi dông tại Bắc Bình phát triển được khoảng 4 năm nay, rồi lan rộng ra các tỉnh Ninh Thuận, Khánh Hòa... Theo số liệu của Phòng NN & PTNT huyện Bắc Bình, tính đến đầu năm 2009, diện tích nuôi dông trong toàn huyện đã lên gần 25 ha, tăng thêm 11 ha so với năm 2007, trong đó nhiều nhất ở các xã Hồng Phong 5 ha, Hòa Thắng 5,5 ha, thị trấn Lương Sơn 5 ha, Sông Lũy 0,7 ha, Hồng Thái 2,5 ha và các xã khác chiếm diện tích gần 6 ha.
Băn khoăn
Thực tế nghề nuôi dông tại Bắc Bình vẫn còn nhỏ lẻ, mật độ nuôi thấp, chỉ từ 1-4 con/m2. Các biện pháp kỹ thuật áp dụng nuôi dông hầu như vẫn chưa có, người nuôi chủ yếu thực hiện theo kinh nghiệm truyền từ người này sang người khác. Người nuôi dông còn gặp không ít khó khăn về vốn đầu tư mua con giống do giá giống khá cao. Bên cạnh đó, mặc dù Bắc Bình chưa xuất hiện dịch bệnh trên con dông, nhưng khi đã nuôi dông theo phương thức thâm canh với mật độ cao thì nguy cơ xảy ra dịch bệnh là khó tránh khỏi.
Do vậy việc tổ chức tập huấn chuyên đề kỹ thuật nuôi dông, nhất là cách phòng tránh các loại dịch bệnh cho người dân lúc này rất cần thiết. Theo ông Ngự thì hiện nay các địa phương đã bắt đầu triển khai thành lập các câu lạc bộ nuôi dông, mục đích để nông dân có điều kiện hỗ trợ nhau về kỹ thuật, giá cả và tìm thị trường tiêu thụ. Cùng với đó, Phòng Nông nghiệp huyện cũng đang tiến hành xây dựng quy trình kỹ thuật nuôi dông để phổ biến cho người dân; kiến nghị với huyện chỉ đạo các ngân hàng cho người nuôi dông vay vốn phát triển nghề nuôi hấp dẫn này…

Thứ Sáu, 7 tháng 10, 2011

Nuôi dông vùng cát


Ở nơi toàn cát, cây bụi và phi lao của Phú Yên, đang manh nha nghề nuôi dông, một loài bò sát hoang dã đang có nguy cơ tuyệt diệt do “phong trào” tiêu thụ đặc sản này rộ lên mấy năm gần đây.
Tiên phong nghề mới có lẽ là một gia đình chuyên nghề nuôi vịt ở Phú Yên. Tại phường Phú Thạnh, TP Tuy Hòa, Phú Yên, ông Huỳnh Ngọc chăn nuôi vịt siêu trứng không còn hiệu quả do thức ăn đắt, giá thành trứng thấp.

Tháng 4/2008, ông Ngọc bán một bò đực giống được 12 triệu đồng. Ông đầu tư hai triệu đồng làm chuồng 60m2, sáu triệu đồng mua 10 kg giống dông, mỗi kilôgam 25-30 con, mỗi con bằng ngón tay trỏ. Trong 300 con dông khởi nghiệp, có 80% là cái, còn lại là đực.

Cày tung biển cát

Những bãi cát hoang vu, cây bụi cằn cỗi dằng dặc, hàng nghìn năm qua, chẳng ai đoái hoài. Thế mà mấy năm lại đây, dọc chiều dài bờ biển 189 km Phú Yên, thấp thoáng giữa những ngư dân, người ta thấy các toán người lúi húi đào moi hố cát.

Nhộn nhịp nhất là ở các xã Xuân Hải (huyện Sông Cầu) và xã Hòa Tâm (huyện Đông Hòa). Nơi đây tự lúc nào hình thành nghề mới, nghề đào và bẫy dông.

Cữ từ tháng 2 dương lịch đến tháng 5, một loạt tỉnh duyên hải nam Trung Bộ (Quảng Ngãi, Bình Định, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận) vào vụ tận diệt dông để phục vụ các bàn nhậu từ bình dân đến cao cấp.

Dông (nhông) là loại bò sát có bốn chi, cùng họ với thằn lằn, rắn mối. Thịt dông ngon và bổ được coi là món ăn đặc sản của Xứ Nẫu. Phú Yên có hai loại dông chính, dông lửa và dông đen.

Thịt dông cát còn có tác dụng chữa hen suyễn, ghẻ lở, bồi bổ cho trẻ em gầy yếu, theo Viện sĩ Thông tấn Liên Xô (cũ) LS.Darepski. Một năm, dông chỉ xuất hiện một lần từ tháng 2 đến tháng 5.

Sống lâu ngày trong hang sâu dưới lòng đất, khi lên khỏi mặt đất, chúng ăn cỏ, côn trùng. Không biết có phải vì thế mà thịt dông rất ngon và đặc trưng.

Chặt đầu, lột da, đem dông vào cối xay hoặc băm nhuyễn với gia vị. Gia vị độc tôn khi làm chả ram là củ sả thái mỏng, băm nhỏ. Sau đó thịt dông được cuốn với bánh tráng (mỗi cuốn ước chừng bằng ngón tay trỏ). Khi dầu ăn sôi, cho vào từng  cuốn chả.

Chả dông ăn kèm với dưa chuột và cà chua sống, cùng với nước chấm là mắm ngon trộn với đậu phộng (lạc) nghiền nhỏ.
Ai qua cung đường này của khúc ruột miền Trung chắc đều có dịp thưởng thức đặc sản dông, từ chả ram dông, cháo dông, đến dông nướng bơ muối ớt.

Giá dông 70.000đồng/xâu dông cồ (đực) hoặc 80.000đồng/xâu dông cái, mỗi xâu 10-12 con. Để bắt dông, nhiều nơi đào tung rừng phi lao, nham nhở mặt cát trắng.

Dân thôn Thạnh Phú, thị trấn Phú Lâm, huyện Tuy Hòa (nay là  khu 3, phường Phú Thạnh, TP Tuy Hòa) lúc nông nhàn tranh thủ bẫy hoặc đào dông, để cải thiện hoặc bán cho quán nhậu. Sau hai giờ bẫy và đào, mỗi người bắt được khoảng 20 - 30 con. Bỏ công một ngày, có người bắt được cả trăm con.

Ông Nguyễn Văn Đoan- Phó Chủ tịch UBND phường Phú Thạnh, TP Tuy Hòa, cho biết: Diện tích rừng phi lao của địa phương hơn 75 ha hư hại không đáng kể sau cơn bão năm 1993. Nhưng từ khi dân đổ xô đào bẫy dông, rừng phi lao thưa dần. Rừng phòng hộ bị tàn phá đến mức, vẫn theo ông Đoan, địa phương phải trình đề án trồng mới rừng ngay trong mùa mưa năm 2008 này.

Rừng điêu tàn kéo theo dông ngày càng vắng bóng. Một số sát thủ dông bắt đầu nhận thấy tương lai ảm đạm. Họ nói sẽ bỏ nghề và rủ anh em hùn vốn xây bể nuôi thay vì chỉ khai thác tự nhiên. Lác đác xuất hiện mô hình nuôi ở Ninh Thuận hay Long Khánh.

Ông Nguyễn Tôn, một người chuyên bẫy dông ở thôn Uất Lâm (xã Hòa Hiệp Bác, huyện Đông Hòa, Phú Yên), ngậm ngùi thời hoàng kim: “Trước, một ngày bắt được 50-100 con, bán cho quán nhậu 150.000- 250.000 đồng là bình thường. Nay phải đi xa hơn, được mươi lăm con đủ nấu canh là cùng”.

Cần các nhà khoa học vào cuộc

Tài liệu hướng dẫn kỹ thuật nuôi dông từ bắc chí nam không có. Dân ở các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận, mỗi người nghĩ mỗi cách nuôi và ai cũng bảo cách của mình tốt. Chẳng ai đến ba cùng với nông dân để thẩm định.

Ông Huỳnh Ngọc, một trong những người tiên phong nuôi dông, vẫn mua nguồn giống của những người bẫy và đào dông tự nhiên. Ông tìm hiểu thấy dông chỉ lên khỏi hang kiếm ăn từ 10 - 12 giờ. Ông đúc rút công thức đồ ăn cho dông gồm cỏ dại, rau muống, cà chua, dưa hồng.

Kinh nghiệm của ông được thực tiễn kiểm chứng bước đầu. Sau thời gian trưởng thành ba tháng tuổi, dông cái đẻ và ấp trứng 15 ngày thì nở. Mỗi lứa trứng nở 4 -8 con. Để giảm cái nắng như rang miền Trung, ông cho làm mưa nhân tạo trong chuồng và trồng cỏ.

Từ trên 300 con giống ban đầu, nay chuồng của ông có 1.000 con sắp xuất chuồng trái vụ cho thương lái ở Khánh Hòa. 1.000 con dông nặng tổng cộng 90 -100kg, có thể bán với giá 180.000đồng/kg, tương đương gần 20 triệu đồng. Trừ chi phí, có lãi hơn 10 triệu đồng.

Nhưng để giải bài toán lâu dài như vấn đề dịch bệnh, ô nhiễm môi trường, suy thoái giống, v.v…, kinh nghiệm của lão nông tri điền không giúp được ông.

Ông Nguyễn Văn Luận, Chủ tịch Hội Nông dân phường Phú Thạnh, TP Tuy Hòa, cũng chỉ có thể kết luận vấn đề ở góc độ kinh tế trước mắt: “Nuôi dông như của ông Huỳnh Ngọc là phù hợp với các địa phương ven biển và có bãi cát hoặc động cát’.

Ông đề nghị: “Các nhà khoa học nên đi sâu nghiên cứu về loài bò sát này để giúp nhân dân biết cách cho dông đẻ nhân tạo một cách hiệu quả”.

Chủ Nhật, 2 tháng 10, 2011

Con dông đặc sản Khu Lê: Triển vọng và ước mơ



Xem hình
Nuôi dong ở Khu Lê Hồng Phong. (ảnh: N.Lân)
Chưa bao giờ vùng đất Bắc Bình nói chung, Khu Lê nói riêng lại rộ lên chuyện nuôi dông nhiều đến như vậy. Con dông gần đây đã trở thành món đặc sản khá đắt đỏ, mà du khách nào mỗi khi có điều kiện đi ngang vùng này đều muốn nếm thử hương vị của chúng.
Tại buổi hội thảo mô hình “Nuôi dông trên đất cát” ở Bắc Bình do Trung tâm SEDEC Bình Thuận vừa tổ chức, lãnh đạo Phòng Nông nghiệp huyện Bắc Bình đã nhận định về tình hình nuôi dông trên địa bàn huyện năm 2008. Theo đánh giá, những năm trước đây người dân bắt con dông vùng đất cát Khu Lê không chỉ để ăn mà còn để bán, nên con dông ngày càng có khả năng bị tuyệt chủng.
Từ đó, nhiều nông dân trong vùng đã chú ý đến việc thu gom và nhân giống, để tổ chức nuôi dông nhân tạo, nhằm tạo thêm nghề mới cho thu nhập ở vùng đất nổi tiếng nghèo khó này. Tính đến thời điểm này, diện tích nuôi dông trên toàn huyện đã phát triển gần 25ha, tăng thêm 11ha so với năm 2007, trong đó  nhiều nhất ở các xã Hồng Phong 5 ha, Hòa Thắng 5,5 ha, thị trấn Lương Sơn 5 ha, Sông Lũy 0,7 ha, Hồng Thái 2,5 ha và các xã khác chiếm diện tích gần 6 ha.
So các địa phương khác trong toàn huyện, vùng đất khu Lê là nơi rất phù hợp để nuôi và phát triển con dông. Dông ở vùng này luôn phát triển nhanh và thịt ngon hơn dông được sinh trưởng, phát triển ở các vùng khác. Nhắc đến Khu Lê người ta nghĩ ngay đến đặc sản con dông.
Tuy nhiên người nuôi dông ở đây vẫn còn nhỏ lẻ, mật độ nuôi thấp từ 1-4 con/m2 và chỉ tăng theo điều kiện mặt bằng của hộ gia đình. Bởi việc nuôi dông ở đây chủ yếu do kinh nghiệm được truyền từ người này sang người khác. Để giúp đồng bào Khu Lê tăng nhanh thu nhập từ con dông đặc sản này (còn gọi là rồng đất), đầu năm 2007 Trung tâm SEDEC Bình Thuận đã vào cuộc tập huấn, hướng dẫn kỹ thuật, và mở rộng nuôi dông ở các địa bàn phù hợp khác trên địa phận Bắc Bình. Từ đó người nuôi dông ở đây đã phát triển mạnh nuôi dông thương phẩm và dông giống ngày càng thuận lợi, mang lại hiệu quả cao hơn. Một số hộ nuôi dông ở Bắc Bình làm ăn khấm khá cho biết, do con dông tương đối dễ nuôi, ít dịch bệnh, giá thành lại cao (từ 280.000 – 300.000đ/kg), nên bà con rất phấn khởi. Tuy nhiên,  người nuôi dông cũng gặp không ít khó khăn như vốn đầu tư để xây dựng chuồng trại ban đầu khá cao, do đó nhiều hộ ở vùng này khi muốn phát triển nghề nuôi dông, lại không đủ kinh phí để thực hiện.
Bên cạnh đó, việc khan hiếm con giống và đầu ra không ổn định cũng là một trong những nguyên nhân, khiến người nuôi dông ở nhiều địa phương của huyện Bắc Bình phải lo lắng. Để nghề nuôi dông có thể phát huy được thế mạnh  và tiềm năng, những hộ nuôi dông ở Khu Lê đều mong muốn ngân hàng tạo điều kiện trong vay vốn hơn nữa, để nông dân đầu tư cho mô hình. Tổ chức tập huấn chuyên đề kỹ thuật nuôi dông, nhất là cách phòng tránh các loại dịch bệnh.
Ông Đinh Văn Ngự, Trưởng Phòng Nông nghiệp huyện cho biết: Hiện nay các địa phương đã bắt đầu triển khai thành lập các câu lạc bộ nuôi dông, mục đích để nông dân có điều kiện hỗ trợ nhau về kỹ thuật, giá cả và tìm thị trường tiêu thụ. Muốn xã hội hóa nghề nuôi dông trong huyện, các tổ chức, cá nhân cần đầu tư, hợp tác một cách chuyên nghiệp hơn, với quy mô phù hợp, trong đó chú trọng xây dựng thương hiệu.